Toàn cảnh phiên họp
Báo cáo về sự cần thiết phải xây dựng Nghị quyết, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, trong thời gian qua, công tác giáo dục mầm non đã đạt được nhiều thành tựu. Mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non phát triển rộng khắp tất cả các xã, phường, thôn, bản trên cả nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đưa trẻ đến trường. Tuy nhiên, giáo dục mầm non vẫn còn tồn tại một số khó khăn, thách thức như: còn một số lượng khá lớn trẻ em mẫu giáo từ 03 đến 04 tuổi (chủ yếu là trẻ em ở vùng khó khăn, trẻ em là đối tượng yếu thế) chưa được tiếp cận với giáo dục mầm non tạo sự mất công bằng trong tiếp cận giáo dục; các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục mầm non còn hạn chế; chính sách hiện hành dành cho trẻ em mầm non, giáo viên, cơ sở giáo dục, cơ chế, chính sách đầu tư, xã hội hóa giáo dục còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục mầm non… Vì vậy, cần phải sớm xây dựng Nghị quyết phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 03 đến 05 tuổi trong giai đoạn mới nhằm tạo hành lang pháp lý và cơ chế, chính sách, giải quyết những bất cập của giáo dục mầm non, thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao.
Trên cơ sở đó, dự thảo Nghị quyết quy định các nội dung về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 03 đến 05 tuổi; một số cơ chế, chính sách đặc thù về đầu tư cơ sở vật chất; ưu đãi thu hút đầu tư; ưu đãi, thu hút đối với giáo viên mầm non dạy các lớp mẫu giáo; chính sách cho trẻ em mẫu giáo học tại các cơ sở giáo dục mầm non và tập trung giải quyết 03 nhóm chính sách gồm: (i) hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với trẻ em mẫu giáo trong độ tuổi thực hiện phổ cập, bảo đảm tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo được huy động đến cơ sở giáo dục mầm non để được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non; (ii) chính sách thu hút, ưu đãi đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên cấp học mầm non thực hiện phổ cập giáo dục mẫu giáo; (iii) đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp giáo dục mầm non, bổ sung cơ chế, chính sách phát triển mạng lưới trường lớp đáp ứng nhu cầu tới trường của trẻ em mẫu giáo.
Đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo báo cáo về sự cần thiết phải xây dựng Nghị quyết
Tại phiên họp, các thành viên Hội đồng thẩm định đã thảo luận, cho ý kiến về hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị quyết. Theo đó, các đại biểu nhất trí cần thiết phải ban hành Nghị quyết, đồng thời cũng đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc một số nội dung, cụ thể:
Trao đổi về 03 chính sách tại Tờ trình, đại diện Văn phòng Quốc hội cho biết, một số chính sách được đưa ra có nội dung liên quan đến các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang thực hiện. Do vậy, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát tổng thể các nội dung này để từ đó xây dựng các quy định bảo đảm tính thống nhất, khả thi khi thực hiện, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lặp. Về nguồn lực triển khai thực hiện Nghị quyết, đại biểu cho rằng, cần làm rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến 02 nhóm nguồn kinh phí cơ bản là ngân sách nhà nước theo phân cấp ngân sách hiện hành và nguồn vốn xã hội hóa giáo dục, các nguồn vốn huy động hợp pháp khác, bên cạnh đó, cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu đề xuất các chính sách mới nhằm thu hút các nhà đầu tư, huy động sự tham gia của tổ chức, cá nhân và của toàn xã hội trong việc phát triển giáo dục mầm non.
Đồng tình với quan điểm của đại diện Văn phòng Quốc hội, đại diện Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai xây dựng một số nghị quyết, chương trình có nội dung liên quan đến phát triển giáo dục mầm non như Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới chương trình giáo dục mầm non, chương trình tăng cường cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2024 - 2030… Vì vậy, để tránh chồng chéo với các nội dung liên quan đến giáo dục mầm non, cơ quan chủ trì soạn thảo cần rà soát lại phạm vi điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh của dự thảo Nghị quyết. Bên cạnh đó, đại biểu cũng đề nghị giảm tải các cơ chế, chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập được đề xuất trong Nghị quyết do không trùng lặp với các chính sách được quy định tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và Nghị định số 97/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP.
Đại biểu phát biểu tại phiên họp
Theo đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan chủ trì soạn thảo cần làm rõ trong Tờ trình về việc Nghị quyết được xây dựng có thuộc các mục đích Quốc hội ban hành nghị quyết quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 15 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020 hay không. Trong trường hợp xác định không thuộc các mục đích được nêu trong Luật này, cần xem xét lại việc lập đề nghị xây dựng Nghị quyết theo đúng quy định của pháp luật. Đối với điểm c khoản 3 Điều 3 dự thảo Nghị quyết quy định “đầu tư xây dựng phát triển cơ sở giáo dục mầm non theo phương thức đối tác công tư (trường công, quản lý tư: thực hiện theo hình thức hợp đồng O&M)”, đại biểu cho biết, theo Luật Đối tác công tư (PPP), quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP là không thấp hơn 100 tỷ đồng. Đây là lý do mà trong thời gian vừa qua, chưa có dự án nào được thực hiện dưới hình thức này. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu lại nội dung này để bảo đảm tính khả thi khi Nghị quyết có hiệu lực thi hành.
Ngoài ra, các đại biểu còn đưa ra một số nội dung đề nghị cho cơ quan soạn thảo cân nhắc nghiên cứu như: cần làm rõ cơ chế hỗ trợ tiền đóng học phí của Nhà nước đối với các đối tượng phổ cập giáo dục mầm non tại các khu vực chưa có đủ trường mầm non công lập; cần có thêm chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo có trẻ từ 03 đến 05 tuổi trong việc duy trì đưa trẻ đến trường; bổ sung giải trình về sự cần thiết hỗ trợ đối với cán bộ quản lý, nhân viên tại các cơ sở giáo dục mầm non trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục; cần bổ sung nghiên cứu đánh giá đối với các đối tượng thụ hưởng chính sách là trẻ em gồm cả trẻ em gái và trẻ em trai do việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đối với các đối tượng là khác nhau...
Thùy Dung