1. Thực tiễn bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay
Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít, chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dân số của một quốc gia. Việt Nam hiện có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc Kinh chiếm đa số và 53 dân tộc thiểu số. Đặc điểm nổi bật là các dân tộc có sự chênh lệch rất lớn về số lượng dân cư. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, toàn quốc có 82.085.826 người dân tộc Kinh, chiếm 85,3% và 14.123.068 người dân tộc khác, chiếm 14,7% tổng dân số của cả nước[1]. Trong đó, theo điều tra dân tộc thiểu số năm 2019, có hơn 07 triệu người dân tộc thiểu số sinh sống ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc, còn lại sinh sống rải rác ở các khu vực khác[2].
Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế có quy định về vấn đề dân tộc thiểu số (Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966; Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965…). Bên cạnh đó, Việt Nam đã nội luật hóa các điều ước quốc tế này cũng như chủ động quy định trong pháp luật những biện pháp bảo đảm quyền bình đẳng của người dân tộc thiểu số.
Về quyền của người dân tộc thiểu số, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (các khoản 2, 3, 4 Điều 5); “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước…” (Điều 23); “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34); “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41); “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” (Điều 42); “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn…” (Điều 58); “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề” (Điều 61)...
Xét dưới góc độ quyền con người và quyền của người dân tộc thiểu số, hệ thống pháp luật nước ta đã có những bước phát triển và tiến bộ đáng kể trong quá trình hội nhập với sự phát triển chung các giá trị tiến bộ của nhân loại[3]. Bên cạnh những quy định bảo đảm quyền con người nói chung, còn có những điều luật quy định đặc thù và các chính sách cụ thể như chính sách về đất đai, giáo dục, y tế, vay vốn tạo việc làm, chính sách bảo tồn và phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc rất ít người... nhằm bảo đảm quyền và thúc đẩy thực thi quyền cho các đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số, phấn đấu cho mục tiêu chung là thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Chính sách hiện nay tập trung phát triển chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa một cách toàn diện ở khu vực miền núi (Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc (Nghị định số 05/2011/NĐ-CP). Ngoài ra, để cụ thể hóa Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới (Kết luận số 65-KL/TW); căn cứ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 (Nghị quyết số 88/2019/QH14), Chính phủ ban hành Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 về Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết đã xác định một số nhiệm vụ đột phá như: Tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc, chính sách dân tộc; rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về công tác dân tộc; xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng, đặc thù của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, hướng tới phát triển bền vững và thúc đẩy tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Về các quyền chung, hiện nay, đồng bào dân tộc thiểu số được đối xử bình đẳng trước pháp luật như mọi con người, công dân Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội mà không có sự phân biệt đối xử hay trường hợp ngoại lệ, nhất là các quyền tự do đi lại và cư trú, quyền có quốc tịch, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng. Bên cạnh đó, nhiều quy định pháp luật và chính sách đặc thù của Nhà nước đã tạo điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận các quyền cơ bản đó một cách thuận lợi và đầy đủ hơn nhằm hạn chế sự bất bình đẳng do những điều kiện bất lợi về môi trường sống, chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khác biệt về văn hóa tạo ra. Ví dụ:
- Quyền tham gia bầu cử, ứng cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong những kỳ bầu cử vừa qua, tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường chiếm tỷ lệ rất cao là minh chứng rõ nét cho việc thực hiện và bảo đảm quyền chính trị của công dân nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Việc tham gia bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị đại diện cho nhân dân cũng đạt thành tựu đáng kể, tăng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu thành phần các cấp qua các nhiệm kỳ. Ví dụ, từ khóa I đến khóa XV, đã có hơn 50 dân tộc thiểu số có đại biểu tham gia Quốc hội[4]. Số lượng đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số đã tăng theo các khóa: Khóa I (1946) chiếm 10,2%, khóa XIII chiếm 15,6% và khóa XIV chiếm 17,4%[5]. Trong danh sách 499 người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, có 89 đại biểu là người dân tộc thiểu số (chiếm 17,84%) thuộc các dân tộc: Tày, Thái, Mông, Mường, Khmer, Chăm, Ê đê, Khơ mú, Nùng, Giáy, Sán Dìu, Thổ, Xơ Đăng, Brâu, Sán Chay (Cao Lan), Lự, La Chí, Vân Kiều, Lào, Hoa, Cơ Ho…
Đồng bào dân tộc thiểu số với tư cách là người dân được tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua đại diện và cả trực tiếp theo những quy định cụ thể, rõ ràng, nhất là hành lang “Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Nhiều nội dung, điều khoản quy định trong các luật, nghị quyết, văn bản hướng dẫn chính sách và ngay cả Chương trình 135[6] đều quy định rất rõ yêu cầu tham gia của người dân vào trong hoạt động quản lý kinh tế - xã hội ở cơ sở trên nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”[7]. Đây là kênh quan trọng để thúc đẩy quyền về chính trị và tham gia các hoạt động quản lý nhà nước của đồng bào dân tộc thiểu số.
- Về văn hóa, các thiết chế văn hóa cơ sở như nhà văn hóa, thư viện, câu lạc bộ, trung tâm sinh hoạt cộng đồng... ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chỉ đạo tập trung xây dựng ở các làng, thôn, bản, buôn, phum, sóc... Hầu hết các xã vùng dân tộc, miền núi có nhà văn hóa hoặc bưu điện văn hóa; nhiều thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng. Đây là nơi sinh hoạt, tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng với nhiều dạng thức phong phú. Nhiều lễ hội ở các vùng dân tộc được khôi phục, tổ chức nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các bản sắc văn hóa các dân tộc, kể cả các dân tộc thiểu số rất ít người. Đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số được nâng lên rõ rệt, nhiều công trình văn hóa đặc sắc đã được vinh danh di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia và nhân loại như: Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên[8], hát Then của đồng bào dân tộc Tày, Nùng[9]...
Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, còn có những yếu tố ảnh hưởng nhất định đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng như việc bảo đảm thực hiện quyền của người dân tộc thiểu số như[10]:
Thứ nhất, đồng bào dân tộc thiểu số nước ta phần lớn sống ở vùng núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, sản xuất chưa phát triển nên khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ cơ bản của xã hội như giao thông, thông tin liên lạc, giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe còn hạn chế. Bên cạnh đó, các điều kiện về bảo đảm lương thực, nhu cầu mặc và chỗ ở an toàn vẫn còn là thách thức đối với một số vùng, nhóm dân cư do sinh sống ở các khu vực có môi trường tự nhiên không thuận lợi. Các dân tộc có sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội[11]. Cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật của đa số nơi đồng bào dân tộc sinh sống thấp kém hơn các vùng khác. Nền kinh tế nông nghiệp còn mang nặng tính tự nhiên, tự túc, tự cấp với sức sản xuất thấp, nhiều nơi sản xuất hàng hóa chưa phát triển, một số dân tộc còn sử dụng phương thức canh tác giản đơn. Sự cách biệt về không gian địa lý làm giảm khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển của quốc gia.
Thứ hai, chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, tỷ lệ lao động trong độ tuổi qua đào tạo thấp, chỉ đạt từ 5 - 20% (tùy dân tộc)[12]. Tình trạng một bộ phận dân cư mù chữ hoặc tái mù chữ, cộng với trình độ văn hóa thấp đã hạn chế khả năng tiếp cận và hưởng thụ các thành quả phát triển gắn với tiêu chí về các quyền cơ bản. Cùng với nó, trình độ năng lực hạn chế sẽ dẫn đến khả năng tự bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân của cá nhân được luật pháp thừa nhận cũng hạn chế do những phức tạp, phong phú của đời sống xã hội của người dân tộc thiểu số.
Thứ ba, bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị “mai một”, nhất là ở các cộng đồng vùng nghèo dưới tác động của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại, sự xâm nhập và biến đổi tôn giáo - tín ngưỡng diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhiều tổ chức quản lý làng, bản truyền thống gắn với các không gian văn hóa cộng đồng chưa được quan tâm bảo tồn, phát huy, một số giá trị sở hữu truyền thống bị “mai một” (ví dụ, các tri thức truyền thống như sử thi, văn hóa cồng chiêng, các nguồn gien truyền thống[13]…). Sức bảo vệ trước dòng chảy văn hóa của một số cộng đồng dân tộc thiểu số có dấu hiệu bị suy giảm, cần có những chính sách trợ lực để bảo vệ bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc.
Thứ tư, thống kê đến năm 2020, Việt Nam đã có tổng cộng 118 chính sách (trong đó có 54 chính sách trực tiếp) cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi[14]. Tuy nhiên, quy định pháp luật về dân tộc thiểu số còn nằm rải rác tại các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau ở nhiều lĩnh vực. Ngoài Hiến pháp năm 2013 ghi nhận các nguyên tắc chung về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, cho đến nay, Việt Nam thiếu văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao ở hình thức luật để điều chỉnh chung về bảo đảm quyền bình đẳng, phát triển của dân tộc thiểu số sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao nhất về dân tộc thiểu số là Nghị định số 05/2011/NĐ-CP. Đây là một nghị định khung về công tác dân tộc, gồm các quy định pháp luật là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Lần đầu tiên, các khái niệm về dân tộc được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật; các chính sách của Đảng về dân tộc đã bước đầu được thể chế hóa. Tuy nhiên, do là nghị định mang tính chất khung, được ban hành từ năm 2011 nên nội dung Nghị định này chưa đủ chi tiết để thực hiện đầy đủ tinh thần và nội dung Hiến pháp năm 2013 về công tác dân tộc. Mặc dù là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất về lĩnh vực này nhưng chưa quy định cụ thể về cơ chế bảo đảm thực hiện các chính sách dân tộc (nhất là cơ chế về nguồn lực), dẫn đến việc phân loại, đánh giá thực hiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chưa thống nhất, đồng bộ trong thực hiện chính sách.
Theo Báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho thấy, còn 23 chính sách dân tộc chưa được ghi nhận; hoặc chưa được quy định cụ thể trong Nghị định số 05/2011/NĐ-CP và các văn bản pháp luật liên quan vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Cụ thể như: Cơ chế, chính sách ưu đãi thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; chính sách hỗ trợ ăn trưa đối với trẻ em nhà trẻ người dân tộc thiểu số, con hộ nghèo tại các cơ sở giáo dục mầm non tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn[15]; chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài là người dân tộc thiểu số; chính sách hỗ trợ đối với nghệ nhân trong việc tổ chức duy trì, bảo tồn, truyền dạy văn hóa truyền thống trong cộng đồng… Nghị định số 05/2011/NĐ-CP là văn bản dưới luật nên chưa đủ hiệu lực pháp lý để định hướng chính sách, làm căn cứ cho các luật chuyên ngành điều chỉnh cho phù hợp, dẫn đến các chính sách dân tộc hiện nay chưa có sự kết nối, thống nhất, tính đồng bộ chưa cao. Nghị định này cũng chưa quy định cụ thể về cơ chế bảo đảm thực hiện các chính sách dân tộc, dẫn đến việc bố trí nguồn lực thực hiện chính sách còn hạn chế…[16].
2. Một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong thời gian tới
Thứ nhất, trong thời gian tới, cần tiếp tục có nhiều giải pháp để tăng cường bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số ở nước ta. Theo đó, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cơ sở pháp lý ngày càng đầy đủ hơn cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển các quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, yêu cầu tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người. Trong đó, tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị[17], các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa nói chung và quyền của nhóm đối tượng dân tộc thiểu số nói riêng. Tại Kết luận số 65-KL/TW cũng yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số. Song song với đó, Nghị quyết số 88/2019/QH14 cũng yêu cầu Chính phủ tổ chức rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách dân tộc, kịp thời đề xuất, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ các văn bản có liên quan không còn phù hợp. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu nâng Nghị định số 05/2011/NĐ-CP lên thành luật là điều rất cần thiết. Luật này cần thể chế hóa một cách đầy đủ, toàn diện, kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng và các quy định của Hiến pháp năm 2013 về công tác dân tộc, chính sách dân tộc; tạo cơ sở pháp lý để đồng bào các dân tộc thiểu số thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, liên quan đến công tác cán bộ của người dân tộc thiểu số, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ khâu phát hiện, lựa chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc, sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu về tiêu chuẩn cán bộ theo quy định chung của Đảng và Nhà nước[18]. Về lâu dài, cần tiếp tục quan tâm hơn đối với đội ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số. Đối với cán bộ có tiềm năng nhưng còn thiếu tiêu chuẩn thì cần đưa vào chương trình, kế hoạch đào tạo để bảo đảm nhu cầu cán bộ, công chức, trong đó có các cơ quan dân cử. Cơ cấu cán bộ dân tộc phấn đấu tương ứng với cơ cấu dân số từng vùng, miền…
Có thể nói, việc bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã được thực hiện qua nhiều quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế - xã hội quan trọng. Pháp luật Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm và thúc đẩy quyền của người dân tộc thiểu số. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi việc thực hiện quyền của người dân tộc thiểu số là vấn đề được ưu tiên trong các chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bởi Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc tôn trọng, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người nói chung, quyền của người thiểu số là thước đo của sự tiến bộ và phát triển xã hội. Trong thời gian tới, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật là điều cần thiết để củng cố hơn cơ sở pháp lý nhằm tăng cường bảo đảm, thúc đẩy thực thi quyền của người dân tộc thiểu số ở nước ta./.
TS. Trương Hồng Quang
Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội
TS. Trần Viết Long
Trường Đại học Luật, Đại học Huế
[1]. Tổng cục Thống kê (2020), Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr. 43.
[2]. Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê (2020), Kết quả Điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr. 55.
[3]. Nguyễn Lâm Thành (2015), Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (17), tr. 41 - 47.
[4]. Quang Minh (2016), Lãnh đạo Đảng, Nhà nước gặp mặt đại biểu Quốc hội khóa XIV là người dân tộc thiểu số, http://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=31622, ngày 28/7/2016, truy cập ngày 10/11/2023; P. Ngọc (2021), 89 người dân tộc thiểu số trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, https://baodantoc.vn/89-nguoi-dan-toc-thieu-so-trung-cu-dai-bieu-quoc-hoi-khoa-xv-1623344636045.htm, ngày 11/6/2021, truy cập ngày 10/11/2023; Bùi Ngọc Thanh (2021), Kết quả bầu cử ĐBQH khóa XV: Những tín hiệu tốt lành, https://hoidongbaucu.quochoi.vn/tintuc/pages/chi-tiet.aspx?ItemID=11731, ngày 14/6/2021, truy cập ngày 10/11/2023.
[5]. Xem: Báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc năm 2014 và thông tin từ website: http://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=31622, truy cập ngày 10/11/2023.
[6]. Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa thực hiện từ năm 1998 (theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ). Ngày 19/6/2020, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 120/2020/QH14 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
[7]. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã bổ sung nguyên tắc này theo hướng: “...trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” (trích Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng do đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng Tiểu ban Văn kiện trình bày ngày 26/01/2021).
[8]. Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải rộng trên địa bàn năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
[9]. Chủ yếu ở một số tỉnh miền núi phía Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang).
[10]. Nguyễn Lâm Thành (2015), tlđd.
[11]. Nguyễn Lâm Thành (2018), Quản lý phát triển xã hội vùng dân tộc và dân tộc thiểu số ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (5), tr. 33 - 36.
[12]. Nguyễn Lâm Thành (2015), tlđd.
[13]. Vũ Tuấn Hưng (2017), Giá trị của tri thức truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (01), tr. 79.
[14]. Phan Thị Lan Hương (2020), Bảo đảm quyền của nhóm yếu thế - Khoảng trống pháp lý và khuyến nghị cho Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 171 - 172.
[15]. Hiện nay, Chính phủ đang soạn thảo Nghị định quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách. Xem: https://baochinhphu.vn/hoc-sinh-ban-tru-dan-toc-thieu-so-duoc-ho-tro-tien-an-900000-dong-thang-102230629143438653.htm, ngày 29/6/2023.
[16]. Sửa đổi Nghị định 05 về công tác dân tộc: Góc nhìn từ đại biểu Quốc hội, http://www.cema.gov.vn/tin-tuc/tin-tuc-su-kien/chu-truong-chinh-sach/sua-doi-nghi-dinh-05-ve-cong-tac-dan-toc-goc-nhin-tu-dai-bieu-quoc-hoi.htm, ngày 20/6/2022, truy cập ngày 10/11/2023.
[17]. Để làm tốt vấn đề này, cần tiếp tục đổi mới những quy định trong hệ thống pháp luật về bầu cử, ứng cử nhằm tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân. Mặt khác, cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quyền chính trị cho đồng bào dân tộc thiểu số cùng với các biện pháp đặc thù để tạo điều kiện cho người dân thực hiện các quyền cơ bản của mình. Rà soát lại hệ thống văn bản pháp quy có liên quan để bổ sung những yêu cầu cần thiết nhằm tăng cường sự tham gia của nhân dân vào các hoạt động quản lý địa phương, quản lý nhà nước, các hoạt động tự quản cộng đồng. Mở rộng các hoạt động hình thức dân chủ phù hợp trong đời sống các cộng đồng dân tộc để họ tham gia hiệu quả hơn vào các quá trình quản lý xã hội... Xem thêm Nguyễn Lâm Thành (2018), tlđd, tr. 33 - 36.
[18]. Thu Lan (2021), Bảo đảm vai trò tham gia của người dân tộc thiểu số trong Quốc hội, https://dangcongsan.vn/xa-hoi/bao-dam-vai-tro-tham-gia-cua-nguoi-dan-toc-thieu-so-trong-quoc-hoi-580233.html, ngày 11/5/2021, truy cập ngày 10/11/2023.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 396), tháng 1/2024)