Thứ tư 12/11/2025 10:44
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.

Từ khóa: cải cách thủ tục hành chính; đổi mới sáng tạo; thể chế; chính sách khoa học, công nghệ.

Abstract: Administrative procedure reform is an important factor, contributing to improving the effectiveness and efficiency of administrative management, promoting the improvement of the investment and business environment, especially creating motivation for creative innovation. This study analyzes the necessity of administrative procedure reform and the current status of administrative procedure reform in Vietnam in unleashing the motivation for creative innovation, thereby proposing reform solutions.

Keywords: Administrative procedure reform; creative innovation; institutions; science and technology policy .

Đặt vấn đề

Thời gian qua, Việt Nam đặc biệt quan tâm tới khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia, gắn với cải cách thủ tục hành chính (TTHC). Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57-NQ/TW) và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết số 68-NQ/TW), trong đó có các nội dung trọng tâm về cải cách TTHC, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là ĐMST. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết và thực trạng cải cách TTHC, cải cách TTHC trong lĩnh vực ĐMST ở Việt Nam thời gian qua, chỉ ra một số vướng mắc, bất cập, từ đó, đề xuất phương hướng, nhiệm vụ cải cách TTHC nhằm khơi thông động lực ĐMST, gắn với phát triển kinh tế tư nhân.

1. Một số vấn đề về cải cách thủ tục hành chính gắn với đổi mới sáng tạo

1.1. Khái niệm cải cách thủ tục hành chính và đổi mới sáng tạo

Cải cách TTHC là nội dung phản ánh rõ nhất mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, có tác động to lớn đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội[1]. Có thể hiểu, cải cách TTHC là quá trình sửa đổi, hoàn thiện và đơn giản hóa các quy định, đồng thời, đổi mới, nâng cao chất lượng tiếp nhận và giải quyết TTHC. Mục tiêu cải cách TTHC là giảm sự phức tạp, rườm rà, tiết kiệm thời gian, chi phí, qua đó, tạo thuận lợi, nâng cao mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp và tăng hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước[2].

Khoản 3 Điều 3 Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2025 quy định: “Đổi mới sáng tạo là hoạt động tạo ra sản phẩm mới, dịch vụ mới, quy trình mới, mô hình kinh doanh mới hoặc cải tiến đáng kể so với sản phẩm, dịch vụ, quy trình, mô hình kinh doanh đã có”. Hiểu rộng hơn, ĐMST là quá trình tạo ra hoặc áp dụng những ý tưởng, sản phẩm, dịch vụ hoặc quy trình mới nhằm tạo ra giá trị gia tăng và giải quyết các vấn đề hiện tại theo những cách thức sáng tạo hơn. ĐMST không chỉ giới hạn trong lĩnh vực công nghệ mà còn diễn ra trong mọi ngành nghề và lĩnh vực, từ kinh doanh, giáo dục, y tế đến quản lý nhà nước.

1.2. Mối quan hệ giữa cải cách thủ tục hành chính với đổi mới sáng tạo

Cải cách TTHC và ĐMST có mối quan hệ bổ trợ lẫn nhau, trong đó, cải cách TTHC tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy ĐMST, đồng thời, ĐMST là động lực quan trọng để nâng cao hiệu quả cải cách TTHC[3]. Cải cách TTHC và ĐMST có phần đồng nhất, một phương án cải cách TTHC cũng có thể là một giải pháp quản lý được tạo ra và ứng dụng nhằm “giải quyết các vấn đề hiện tại theo những cách thức sáng tạo hơn”, xét ở một góc độ nhất định, đó cũng chính là ĐMST.

1.3. Quan điểm của Đảng về cải cách thủ tục hành chính gắn với đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế

Với quan điểm phát triển khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, khuyến khích tinh thần kinh doanh, ĐMST của người dân, doanh nghiệp, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để bảo đảm yêu cầu quản lý và khuyến khích ĐMST, loại bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, hoàn thiện pháp luật và cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong những lĩnh vực ĐMST, Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2030, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và ĐMST của Việt Nam đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động ĐMST đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp[4], trong đó, kinh tế tư nhân là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số[5]. Đảng cũng định hướng các nhiệm vụ, giải pháp như: (i) có chính sách chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ĐMST; (ii) có chính sách miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, miễn thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp, quyền góp vốn vào doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; (iii) miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân cho các chuyên gia, nhà khoa học làm việc tại doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm ĐMST, các tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST, cho phép doanh nghiệp được trích tối đa 20% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập quỹ phát triển khoa học, công nghệ, ĐMST, chuyển đổi số và nghiên cứu phát triển; (iv) triển khai Chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu, tiên phong trong khoa học, công nghệ, ĐMST[6].

Như vậy, các nghị quyết của Đảng đã xác định rõ việc cải cách TTHC không chỉ nhằm thúc đẩy ĐMST mà còn tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế.

1.4. Yêu cầu cải cách thủ tục hành chính để tạo động lực đổi mới sáng tạo

Các quốc gia trên thế giới đều quan tâm và có những giải pháp thúc đẩy, khơi thông động lực ĐMST, trong đó có giải pháp về cải cách thể chế, TTHC. Từ năm 2007, Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) đã công bố Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) là công cụ đánh giá và xếp hạng năng lực ĐMST của các quốc gia và vùng lãnh thổ. TTHC là một yếu tố quan trọng trong GII, phản ánh mức độ sẵn sàng của Chính phủ trong hỗ trợ và thúc đẩy ĐMST. Các quốc gia có TTHC thuận lợi, minh bạch và hiệu quả thường đạt điểm số cao hơn, khẳng định vai trò then chốt của cải cách TTHC đối với năng lực ĐMST quốc gia. Việt Nam đặc biệt quan tâm và coi ĐMST như một động lực để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra gắn liền với cải cách thể chế, TTHC nên cần có tư duy, cách tiếp cận mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa trong cải cách TTHC; kế thừa, phát huy kết quả đạt được, bài học hay, kinh nghiệm quý; thúc đẩy ĐMST, nỗ lực đột phá vượt lên[7]. Như vậy, gắn cải cách TTHC với cải cách thể chế và ĐMST là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Yêu cầu cải cách TTHC để khơi thông động lực ĐMST cần được nhìn nhận ở hai góc độ: (i) ở phạm vi tổng thể, kết quả cải cách TTHC sâu rộng trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ góp phần “tạo ra, ứng dụng giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa” chính là khơi thông, thúc đẩy động lực ĐMST; (ii) ở phạm vi hẹp, cải cách các TTHC liên quan trực tiếp đến các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực ĐMST, góp phần đưa các chính sách khuyến khích, thúc đẩy ĐMST đến nhanh hơn, gần hơn với thực tiễn cuộc sống.

2. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính liên quan đến đổi mới sáng tạo ở Việt Nam

2.1. Kết quả đạt được

2.1.1. Về kết quả cải cách thủ tục hành chính nói chung

Thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương tích cực triển khai cắt giảm các TTHC liên quan đến hoạt động kinh doanh của người dân, doanh nghiệp[8], phân cấp thẩm quyền giải quyết TTHC[9], đơn giản hóa các TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư[10], rà soát, đơn giản hóa TTHC nội bộ trong hệ thống hành chính nhà nước[11]… Tính đến ngày 25/4/2025, các bộ và các cơ quan hành chính nhà nước có liên quan cắt giảm, đơn giản hóa 3.195 quy định kinh doanh (trong đó, hầu hết là TTHC) tại 281 văn bản quy phạm pháp luật; phân cấp 392 TTHC tại 89 văn bản quy phạm pháp luật; đơn giản hóa 983 TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư tại 288 văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt, lần đầu tiên, các bộ, ngành, địa phương đã nhận diện, công bố gần 900 TTHC nội bộ giữa các cơ quan hành chính nhà nước, khoảng hơn 200 TTHC nội bộ trong từng bộ, 600 TTHC nội bộ trong từng địa phương; một số TTHC nội bộ trong lĩnh vực quản lý công sản, cán bộ, công chức… đã được đơn giản hóa, tạo thuận lợi cho hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức.

Cùng với cải cách quy định, các bộ, ngành, địa phương quan tâm cải cách thực hiện TTHC. Trước thời điểm thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy của chính quyền địa phương, cả nước đã thành lập 11.956 bộ phận một cửa các cấp để tiếp nhận, giải quyết TTHC; 100% cơ quan, đơn vị quan tâm nâng cấp, hoàn thiện Hệ thống thông tin giải quyết TTHC; việc số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC đã được triển khai ở 9.200/11.956 bộ phận một cửa. Để tiếp tục đổi mới thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông theo hướng tiếp nhận, giải quyết TTHC công khai, minh bạch, hiệu quả và hướng tới mục tiêu 100% TTHC được thực hiện không phụ thuộc vào địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh, Quốc hội đã ban hành nghị quyết[12] và Chính phủ[13] đã chỉ đạo triển khai mô hình Trung tâm Phục vụ hành chính công một cấp trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thí điểm tại 05 địa phương[14].

Bên cạnh đó, từ khi triển khai vào tháng 12/2019, đến ngày 25/4/2025, Cổng dịch vụ công quốc gia đã cung cấp 3.525 dịch vụ công trực tuyến; hơn 506 triệu hồ sơ đồng bộ; 75,2 triệu hồ sơ trực tuyến từ Cổng; hơn 30,3 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến thành công với số tiền hơn 24.052 tỷ đồng. Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tất cả bộ, ngành, địa phương[15] đã kết nối với VNeID thông qua Cổng dịch vụ công quốc gia. Theo đó, công dân Việt Nam có thể đăng nhập bằng tài khoản định danh điện tử VNeID để thực hiện dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia và Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh. Nhiều dịch vụ công thiết yếu được tái cấu trúc quy trình TTHC trên cơ sở liên thông điện tử, tái sử dụng dữ liệu số hóa giúp giảm quy trình, thời gian, chi phí thực hiện như: dịch vụ công trực tuyến đăng ký, cấp biển số xe[16]; dịch vụ công toàn trình đổi giấy phép lái xe[17]; 02 nhóm dịch vụ công trực tuyến liên thông “Đăng ký khai sinh - Đăng ký thường trú - Cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi” và “Đăng ký khai tử - Xóa đăng ký thường trú - Trợ cấp mai táng, hỗ trợ chi phí mai táng”[18]; thực hiện mở rộng thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua VNeID trên toàn quốc từ tháng 10/2024[19], tỉ lệ cấp Phiếu lý lịch tư pháp điện tử chiếm hơn 50% tổng số hồ sơ cấp Phiếu này trên toàn quốc…

Bộ chỉ số chỉ đạo, điều hành và đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp trong thực hiện TTHC, dịch vụ công theo thời gian thực trên môi trường điện tử được triển khai trên Cổng dịch vụ công quốc gia là bộ công cụ điện tử giúp đánh giá chính xác, chỉ ra các vấn đề cụ thể trong cung cấp dịch vụ công để các bộ, ngành, địa phương khắc phục. Bộ chỉ số này gồm 05 nhóm chỉ số thành phần: (i) công khai, minh bạch; (ii) tiến độ, kết quả giải quyết; (iii) số hóa hồ sơ; (iv) cung cấp dịch vụ trực tuyến; (v) mức độ hài lòng; cho phép đánh giá chất lượng thực hiện chi tiết đến từng TTHC, từng hồ sơ giải quyết và cá thể hóa trách nhiệm đến từng cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Các thông tin đánh giá công khai, minh bạch và tất cả bộ, ngành, địa phương đều có thể theo dõi được; thông tin đánh giá cập nhật theo thời gian hàng tuần và căn cứ trên nguồn dữ liệu các bộ, ngành, địa phương đồng bộ từ Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của mình về Cổng dịch vụ công quốc gia. Do đó, thông tin có tính chính xác cao, phản ánh kịp thời tình hình thực tiễn; đồng thời, khắc phục được nhược điểm thường thấy ở các bộ chỉ số khác, gần như không có độ trễ.

2.1.2. Về cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực liên quan đến đổi mới sáng tạo

Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố 206 TTHC trong lĩnh vực hoạt động khoa học, công nghệ, sở hữu trí tuệ[20], trong đó có các TTHC cần thiết để các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khoa học, công nghệ hoạt động, từ khâu thành lập đến phê duyệt và thực thi các dự án khởi nghiệp ĐMST... Ngoài ra, doanh nghiệp hoạt động ĐMST cần thực hiện các TTHC tương tự như các doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động, như: tiêu chuẩn, chất lượng, về môi trường và an toàn lao động, thuế, tài chính, lao động và chuyên gia…

Để cụ thể hóa các quy định của pháp luật về hoạt động khoa học, công nghệ, các chính sách ưu đãi cho khoa học, công nghệ, ĐMST[21], thời gian qua, các TTHC trong lĩnh vực này cũng được quan tâm ban hành và cải cách, đơn giản hóa. Nội dung cải cách, đơn giản hóa tập trung vào: quy định cụ thể, đơn giản hóa thành phần hồ sơ, mẫu hóa thành phần hồ sơ[22]; phân cấp giải quyết TTHC[23]; rút ngắn thời gian giải quyết TTHC[24]; quy định phương thức thực hiện trực tuyến[25]; quy định sử dụng tài khoản định danh điện tử, cho phép cá nhân là công dân Việt Nam sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 thay thế cho bản sao Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân hoặc Hộ chiếu khi thực hiện thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận hoạt động ứng dụng công nghệ cao.

Bên cạnh cải cách quy định về TTHC, việc nâng cao chất lượng giải quyết TTHC trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, ĐMST cũng được quan tâm. Tính đến ngày 30/5/2025, hơn 200 TTHC trong lĩnh vực này được công bố công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC, có thể dễ dàng tìm hiểu, tra cứu thông tin. Người dân và doanh nghiệp có thể thực hiện dịch vụ công trực tuyến đối với các thủ tục như: cấp phép nghiên cứu khoa học, đăng ký quyền sở hữu trí tuệ hoặc đăng ký hỗ trợ từ các quỹ khoa học, công nghệ mà không cần đến trực tiếp cơ quan quản lý. Các dịch vụ công trực tuyến không bị giới hạn bởi địa lý, giúp các doanh nghiệp ở vùng sâu, vùng xa có cơ hội tiếp cận chính sách và nguồn lực khoa học, công nghệ như các doanh nghiệp tại trung tâm kinh tế lớn.

2.2. Một số bất cập về thủ tục hành chính trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo

Thứ nhất, quy định về sở hữu trí tuệ tại Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019, 2022 (Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005) và hệ thống quy định pháp luật hiện hành, tuy có nhiều tiến bộ để phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế và hội nhập quốc tế, nhưng chưa cụ thể về tiêu chí, thủ tục và trách nhiệm các bên để thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ từ Nhà nước sang tổ chức, cá nhân… Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định cần có hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, nhưng chưa quy định trường hợp chuyển giao quyền từ nhiệm vụ khoa học, công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước. Điều này có thể làm cho các tổ chức gặp khó khăn trong việc đăng ký chuyển giao quyền, làm chậm quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Bên cạnh đó, còn thiếu hướng dẫn chi tiết về điều kiện và thủ tục vay vốn ưu đãi, gây khó khăn cho doanh nghiệp và tổ chức tiếp cận một số quỹ như Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia (NAFOSTED) hoặc Quỹ Đổi mới Công nghệ quốc gia (NATIF) cung cấp tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp thực hiện dự án ĐMST. Các tiêu chí đánh giá tính khả thi của dự án, đặc biệt, những dự án có tính rủi ro cao, chưa được quy định cụ thể, thủ tục xét duyệt qua nhiều bước[26], yêu cầu nhiều tài liệu chứng minh mà doanh nghiệp khởi nghiệp thường mất nhiều thời gian để đáp ứng[27], điều này khiến việc triển khai các dự án ĐMST mất nhiều thời gian.

Thứ hai, việc thực hiện các TTHC trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, ĐMST, nhất là các TTHC hỗ trợ ưu đãi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp còn nhiều bất cập. Trên thực tế, hội đồng xét duyệt thường không công bố công khai điểm số, đánh giá chi tiết từng dự án, tuy không vi phạm quy định, nhưng dẫn đến sự thiếu minh bạch và có thể gây hiểu lầm về tính khách quan. Các TTHC đăng ký sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp hầu hết bị kéo dài, chậm trễ so với quy định về thời hạn giải quyết[28]. Nguyên nhân khách quan do số lượng hồ sơ nhiều, trong khi nguồn lực xử lý (nhân sự, cơ sở hạ tầng) còn hạn chế; chưa có cơ chế ưu tiên cho các đơn đăng ký quan trọng hoặc có tính cấp thiết như sáng chế về y tế, công nghệ môi trường… (do phải tuân thủ một số cam kết quốc tế trong lĩnh vực này), dẫn đến việc xử lý theo thứ tự nộp đơn và càng làm số lượng hồ sơ TTHC bị chậm, kéo dài tăng lên. Bên cạnh đó, quy trình, thủ tục phức tạp, thẩm quyền giải quyết chưa được xem xét phân cấp cho địa phương với các nội dung phù hợp (ví dụ: với đăng ký nhãn hiệu, có thể nghiên cứu phân cấp về cơ quan quản lý khoa học, công nghệ cấp tỉnh giải quyết để giảm tải cho Cục Sở hữu trí tuệ); việc ứng dụng công nghệ số trong tiếp nhận, giải quyết TTHC về ĐMST còn hạn chế.

Như vậy, hiện, quy định và thực hiện TTHC trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, ĐMST tại Việt Nam còn nhiều bất cập. Hệ thống hỗ trợ chưa đồng bộ, đặc biệt, trong đăng ký sở hữu trí tuệ và tiếp cận quỹ hỗ trợ. Những hạn chế này làm giảm hiệu quả chính sách, cản trở doanh nghiệp và cá nhân trong quá trình thực hiện ĐMST.

3. Kiến nghị, giải pháp

Thứ nhất, cải cách đồng bộ thể chế, quy định theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Trong đó, tập trung sửa đổi quy định pháp luật để tháo gỡ điểm nghẽn trong hoạt động khoa học, công nghệ và ĐMST theo hướng chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ĐMST. Trước trên, cần sửa đổi một số quy định có liên quan trong Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2025 để: (i) tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi thúc đẩy khoa học, công nghệ và ĐMST; (ii) đơn giản hóa TTHC, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong công tác quản lý nhà nước; (iii) tập trung nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, thu hút đầu tư ngoài ngân sách cho khoa học, công nghệ và ĐMST. Đồng thời, một số đạo luật có quy định cần được sửa đổi như:

- Sửa đổi một số quy định trong Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Luật Doanh nghiệp năm 2020 (sửa đổi, bổ sung các năm 2022, 2025) để tạo điều kiện thuận lợi cho viên chức được tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp do viện nghiên cứu, trường đại học nơi viên chức đang làm việc thành lập để thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đồng thời, tăng cường bảo vệ và khai thác hiệu quả tài sản trí tuệ, đặc biệt là các sáng chế và công nghệ số. Quy định cụ thể, rõ ràng thủ tục để tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện.

- Sửa đổi một số quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung các năm 2017, 2025), Luật Đầu tư công năm 2024, Luật Đấu thầu năm 2023, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công năm 2017, Luật Giá năm 2023, Luật Đấu giá tài sản năm 2016 (sửa đổi, bổ sung năm 2024) để điều chỉnh các quy định liên quan cho phù hợp với đặc thù và thông lệ quốc tế trong sử dụng ngân sách nhà nước thực hiện các nhiệm vụ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.

Đặc biệt, Bộ Khoa học và Công nghệ cần sớm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan (Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Công an…) và địa phương nghiên cứu, rà soát, trình cấp có thẩm quyền sửa đổi các quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và các luật liên quan nhằm loại bỏ sự chồng chéo, mâu thuẫn; trong đó, bổ sung các điều khoản cụ thể về ĐMST và khởi nghiệp ĐMST… đồng thời, tích cực, chủ động, thường xuyên rà soát quy định, TTHC về khoa học, công nghệ và ĐMST để kịp thời sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền.

Thứ hai, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi và đơn giản hóa TTHC về đầu tư trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số để thu hút, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư. Đặc biệt, bổ sung, hoàn thiện, ban hành TTHC để doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST được hưởng ưu đãi về chính sách thuế, tín dụng, đất đai…, chính sách thử nghiệm ứng dụng công nghệ và ĐMST đối với các công nghệ/lĩnh vực mới.

Thứ ba, cải cách thực hiện TTHC. Các bộ, ngành, địa phương phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện tốt TTHC về ĐMST trong phạm vi thẩm quyền. Trong đó, cần tập trung vào các giải pháp như: thực hiện nghiêm túc việc công bố, công khai TTHC về ĐMST trên các kênh thông tin theo quy định hiện hành; số hóa hồ sơ TTHC và triển khai dịch vụ công trực tuyến hiệu quả; minh bạch hóa quy trình xử lý và công khai kết quả xét duyệt; tăng cường năng lực cán bộ, công chức giải quyết TTHC, nhất là kỹ năng số hóa và ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện; thực hiện nghiêm việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị để kịp thời giải quyết vướng mắc của doanh nghiệp và người dân. Đồng thời, cần phát triển hạ tầng, tiếp tục hoàn thiện, tích hợp, kết nối các cơ sở dữ liệu liên quan với Cổng dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của Bộ Khoa học và Công nghệ và các địa phương, đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại, bảo đảm an toàn thông tin và kết nối liên thông giữa các cơ quan.

Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tham mưu hoạch định và thực thi chính sách, quy định, TTHC. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tham mưu và thực thi chính sách, pháp luật, TTHC về khoa học, công nghệ và ĐMST. Thông qua các biện pháp tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về ĐMST, khoa học, công nghệ, kỹ năng quản lý và tư duy chiến lược, chú trọng cập nhật xu hướng toàn cầu. Bên cạnh đó, có cơ chế khen thưởng, xử lý kỷ luật tương ứng, phù hợp đối với cán bộ, công chức có thành tích xuất sắc hoặc có vi phạm trong thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc khen thưởng, kỷ luật.

Thứ năm, cá nhân, tổ chức doanh nghiệp hoạt động khoa học, công nghệ và ĐMST tích cực tham gia vào quá trình giám sát, phản biện bảo đảm các chính sách cải cách phù hợp với thực tiễn; chủ động phản ánh khó khăn, vướng mắc và đề xuất các sáng kiến cải cách TTHC.

Kết luận

Hoàn thiện thể chế, cải cách TTHC không chỉ giúp tháo gỡ rào cản khó khăn, vướng mắc cho người dân, doanh nghiệp mà còn nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước; chuyển từ nền hành chính công vụ, quản lý là chủ yếu sang phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; đồng thời, tăng cường tính minh bạch và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính trong hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST; thúc đẩy nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế./.

ThS. Nguyễn Duy Hoàng

Cục trưởng Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ

ThS. Nguyễn Thị Trà Lê

Trưởng phòng, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ

Ảnh: internet

[1]. Tài liệu bồi dưỡng đối với công chức ngạch chuyên viên và tương đương ban hành kèm theo Quyết định số 3309/QĐ-HVHC ngày 17/8/2022 của Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia, tr. 53.

[2]. Trần Quang Huy (2021), Cải cách thủ tục hành chính và năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật.

[3]. Nguyễn Hữu Dũng (2022), Thủ tục hành chính và đổi mới sáng tạo: Mối quan hệ và giải pháp, Tạp chí Quản lý nhà nước.

[4]. Nghị quyết số 57-NQ/TW.

[5]. Nghị quyết số 68-NQ/TW.

[6]. Nghị quyết số 68-NQ/TW.

[7]. Nghị quyết số 131/NQ-CP ngày 06/10/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp.

[8]. Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025.

[9]. Quyết định số 1015/QĐ-TTg ngày 30/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của các bộ, cơ quan ngang bộ.

[10]. Theo 19 nghị quyết chuyên đề của Chính phủ trong giai đoạn 2017 - 2018.

[11]. Quyết định số 1085/QĐ-TTg ngày 15/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính nội bộ trong hệ thống hành chính nhà nước giai đoạn 2022 - 2025.

[12]. Nghị quyết số 142/2024/QH15 ngày 29/6/2024 của Quốc hội về Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV.

[13]. Nghị quyết số 108/NQ-CP ngày 10/7/2024 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 năm 2024 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương và Nghị quyết số 188/NQ-CP ngày 11/10/2024 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9 năm 2024 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương.

[14]. Gồm: thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Ninh và Bình Dương (nay sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh).

[15]. Trừ Thanh tra Chính phủ việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thực hiện trên hệ thống riêng của ngành.

[16]. Dựa trên kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan đăng kiểm, hải quan, thuế, công an giúp cắt giảm thủ tục xác nhận tờ khai nguồn gốc xe đối với xe nhập khẩu, giảm các giấy tờ phải nộp, thông tin phải điền của chủ xe.

[17]. Dựa trên kết nối, chia sẻ dữ liệu giấy khám sức khỏe của các cơ sở khám, chữa bệnh thông qua hệ thống thông tin của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, dữ liệu xử lý vi phạm hành chính của Bộ Công an giúp giảm thời gian, thủ tục xác minh, kiểm tra và giấy tờ phải nộp.

[18]. Giúp cắt giảm hồ sơ, giấy tờ, thời gian thực hiện, chi phí đi lại của nhóm khai sinh từ tổng số 21 ngày làm việc xuống 04 ngày làm việc; nhóm khai tử từ tổng số 25 ngày làm việc xuống 10 ngày làm việc.

[19]. Công văn số 656/TTg-KSTT ngày 24/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc mở rộng thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID.

[20]. Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC trên Cổng Dịch vụ công quốc gia.

[21]. Như: Luật Đầu tư sửa đổi mở rộng danh mục các ngành nghề được ưu đãi đầu tư, đặc biệt, trong lĩnh vực công nghệ cao và ĐMST; Luật Khoa học và công nghệ xác định doanh nghiệp đầu tư hoặc liên kết đầu tư nghiên cứu khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa được quỹ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ được xét hỗ trợ, cho vay và được hưởng ưu đãi; doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa được quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay, bảo lãnh để vay vốn; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất theo quy định của pháp luật về công nghệ cao. Tổ chức, cá nhân vay vốn để đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ được ưu đãi về tín dụng theo điều lệ của quỹ nơi vay vốn. Tổ chức, cá nhân vay vốn tại ngân hàng thương mại để đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ, đặc biệt, hoạt động triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm được Ngân hàng Phát triển Việt Nam xem xét hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư, dành tỷ lệ nhất định dư nợ tín dụng cho hoạt động khoa học và công nghệ…

[22]. Ví dụ: TTHC Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ công nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã loại bỏ yêu cầu về bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Báo cáo tài chính và các tài liệu chứng minh khả năng ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ so với Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 của Chính phủ về doanh nghiệp, khoa học và công nghệ, mẫu hóa thành phần hồ sơ là Đơn đề nghị và Phương án sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ; quy định rõ 07 loại văn bản xác nhận, công nhận kết quả khoa học và công nghệ của cơ quan có thẩm quyền; Các biểu mẫu liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận hoạt động ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao và doanh nghiệp công nghệ cao được thay thế bằng các biểu mẫu, lược bỏ các thông tin không cần thiết.

[23]. Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/01/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học và công nghệ phân cấp thẩm quyền cho Sở Khoa học và Công nghệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ cho tổ chức khoa học và công nghệ cấp tỉnh, địa phương; Nghị định số 133/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ.

[24]. Thời gian thẩm định đơn đăng ký sáng chế và nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp giảm tương ứng từ 36 tháng, 12 tháng (Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019) xuống 18 tháng, 09 tháng và 07 tháng (Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2022).

[25]. Việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ và nhiều TTHC khác trong lĩnh vực này đã được triển khai qua Cổng dịch vụ công quốc gia, các tổ chức có thể nộp hồ sơ trực tuyến, theo dõi tiến trình xử lý và nhận kết quả một cách thuận tiện.

[26]. Nộp hồ sơ, đánh giá khoa học, thẩm định tài chính và phê duyệt từ hội đồng chuyên môn, vòng xét duyệt đòi hỏi tài liệu chi tiết và thường mất từ 03 - 06 tháng để hoàn tất…

[27]. Đề án hoặc dự án ĐMST chi tiết, kèm theo kế hoạch tài chính; tài liệu chứng minh năng lực chuyên môn và tài chính, gồm báo cáo kiểm toán, báo cáo thuế; các hợp đồng, giấy phép sở hữu trí tuệ, tài liệu xác nhận tính pháp lý của tổ chức/doanh nghiệp…

[28]. Theo báo cáo công tác kiểm soát TTHC năm 2024 của Bộ Khoa học và Công nghệ (gửi báo cáo Thủ tướng Chính phủ thông qua Hệ thống thông tin báo cáo của Văn phòng Chính phủ), kỳ báo cáo năm 2024 (từ ngày 15/12/2023 đến hết ngày 14/12/2024), các TTHC trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã tiếp nhận 301.654 hồ sơ, đã giải quyết 120.078 (trong đó có 79.399 hồ sơ giải quyết quá hạn, chiếm 66,1%), đang giải quyết 181.576 hồ sơ (trong đó có đến 163.187 hồ sơ đã quá hạn, chiếm 89,9% số lượng hồ sơ đang giải quyết).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Khoa học và Công nghệ (2023), Báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo Việt Nam 2023.

2. Bộ Nội vụ (2022), Báo cáo đánh giá mức độ hài lòng của người dân về cải cách thủ tục hành chính.

3. Các báo cáo công tác cải cách thủ tục hành chính của Văn phòng Chính phủ trình tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ hàng tháng, từ tháng 7/2023 đến tháng 12/2024.

4. Lê Quốc Tuấn (2022), Tác động của cải cách thủ tục hành chính đến khởi nghiệp tại Việt Nam, Tạp chí Phát triển Doanh nghiệp.

5. Lê Thị Lan (2022), Thực trạng cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực khoa học công nghệ, Tạp chí Khoa học Việt Nam.

6. Nguyễn Hữu Dũng (2022), Thủ tục hành chính và đổi mới sáng tạo: Mối quan hệ và giải pháp, Tạp chí Quản lý nhà nước.

7. Nguyễn Quang Minh (2023), Thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua cải cách thủ tục hành chính, Tạp chí Đổi mới và Phát triển.

8. Nguyễn Thị Lan Anh (2022), Đổi mới sáng tạo trong khu vực công: Vai trò của cải cách thủ tục hành chính, Tạp chí Phát triển hành chính.

9. Nguyễn Thị Mai Hương (2021), Thể chế hành chính và đổi mới sáng tạo trong phát triển bền vững, Tạp chí Xã hội học.

10. Nguyễn Văn Phúc (2022), Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo thông qua cải cách hành chính, Tạp chí Pháp luật và Chính sách.

11. Nguyễn Văn Tâm (2021), Cải cách hành chính công và động lực đổi mới sáng tạo, Tạp chí Quản lý công.

12. Phạm Quốc Việt (2022), Thủ tục hành chính hiệu quả: Động lực thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, Tạp chí Kinh doanh và Phát triển.

13. Trần Quang Huy (2021), Cải cách thủ tục hành chính và năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật.

14. Trần Thu Hà (2023), Chính sách công hỗ trợ đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Việt Nam.

15. Vũ Phương Nhi (2023), Cải cách hành chính phải gắn với đổi mới sáng tạo, https://baochinhphu.vn/cai-cach-hanh-chinh-phai-gan-voi-doi-moi-sang-tao-102230224190750718.htm.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 2 (437) tháng 9/2025))

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Toàn ngành Tư pháp tiếp tục quyết liệt, khẩn trương, chủ động hơn trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật

Toàn ngành Tư pháp tiếp tục quyết liệt, khẩn trương, chủ động hơn trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật

Ngày 11/11/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Quốc Dũng chủ trì cuộc họp với Bộ Tư pháp về tình hình xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và những nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới.
Tăng cường năng lực toàn diện cho đội ngũ cán bộ pháp chế trước yêu cầu hình thành chế định luật sư công tại Việt Nam

Tăng cường năng lực toàn diện cho đội ngũ cán bộ pháp chế trước yêu cầu hình thành chế định luật sư công tại Việt Nam

Sáng ngày 07/11/2025, Bộ Tư pháp phối hợp với Viện KAS (Konrad Adenauer Stiftung) tại Việt Nam tổ chức Hội nghị "Phát huy vai trò và năng lực của đội ngũ làm công tác pháp chế trước yêu cầu hình thành chế định luật sư công tại Việt Nam". Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phan Chí Hiếu chủ trì Hội nghị. Đồng chủ trì có ông Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính - Bộ Tư pháp và ông Lewe Paul, Trưởng đại diện Văn phòng Viện KAS tại Việt Nam.
Chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Đây là một trong những chỉ đạo quan trọng của đồng chí Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội tại Lễ hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2025 do Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ương tổ chức ngày 07/11/2025 theo hình thức trực tiếp kết hợp với trực tuyến tới 34 điểm cầu các tỉnh, thành phố.
Cổng pháp luật Quốc gia phiên bản chính thức tích hợp nhiều tính năng và nền tảng mới, trong đó có ứng dụng trí tuệ nhân tạo

Cổng pháp luật Quốc gia phiên bản chính thức tích hợp nhiều tính năng và nền tảng mới, trong đó có ứng dụng trí tuệ nhân tạo

Chiều ngày 05/11/2025, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh chủ trì buổi làm việc với các đơn vị có liên quan về công tác truyền thông Cổng pháp luật Quốc gia phiên bản chính thức.
Mô hình doanh nghiệp đồng hành trong lĩnh vực công nghệ sẽ tạo nguồn lực tốt triển khai cắt giảm thủ tục hành chính

Mô hình doanh nghiệp đồng hành trong lĩnh vực công nghệ sẽ tạo nguồn lực tốt triển khai cắt giảm thủ tục hành chính

Tiếp tục chương trình công tác, chiều ngày 30/10/2025, Đoàn công tác do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, Tổ phó Tổ công tác liên ngành về rà soát, đánh giá thủ tục hành chính (TTHC) trên phạm vi toàn quốc đã làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ về rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa TTHC dựa trên dữ liệu theo Công điện số 201/CĐ-TTg ngày 22/10/2025 của Thủ tướng Chính phủ. Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương cùng tham dự buổi làm việc.
Cắt giảm thủ tục hành chính phải đồng bộ với tái cấu trúc tập trung hệ thống thủ tục hành chính theo ngành dọc quản lý

Cắt giảm thủ tục hành chính phải đồng bộ với tái cấu trúc tập trung hệ thống thủ tục hành chính theo ngành dọc quản lý

Đây là chỉ đạo quan trọng của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại buổi làm việc với Tổ Công tác của Bộ về rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính ngày 31/10/2025. Tham dự buổi làm việc có Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh cùng đại diện Lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ.
Khẩn trương tái cấu trúc quy trình giải quyết thủ tục hành chính trong phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp

Khẩn trương tái cấu trúc quy trình giải quyết thủ tục hành chính trong phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp

Chiều ngày 31/10/2025, Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, Trưởng Ban Chỉ đạo của Bộ Tư pháp về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06 chủ trì cuộc họp giao ban tuần của Ban Chỉ đạo. Cùng dự cuộc họp có Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, Phó Trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo; Phó Bí thư chuyên trách Đảng ủy Nguyễn Quang Thái, Phó trưởng Ban Chỉ đạo.
Tập trung quy định rõ trách nhiệm và quy trình xin ý kiến của Đảng trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Tập trung quy định rõ trách nhiệm và quy trình xin ý kiến của Đảng trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Chiều ngày 30/10/2025, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phan Chí Hiếu làm việc với các đơn vị về dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn trách nhiệm, quy trình xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền của Đảng trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (dự thảo Quyết định).
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Nhận diện những hạn chế, bất cập trong cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam

Nhận diện những hạn chế, bất cập trong cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam

Chiều ngày 29/10/2025, Bộ Tư pháp tổ chức Hội thảo khoa học cấp Bộ "Thực trạng cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam". Đồng chí Nguyễn Thanh Tịnh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì Hội thảo. Đồng chủ trì có đồng chí Ngô Trung Thành, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội. Tham dự Hội thảo có đại diện các bộ, ngành ở trung ương; đại diện một số đơn vị thuộc Bộ Tư pháp cùng các chuyên gia, nhà khoa học.
Định hướng mở rộng hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật của địa phương

Định hướng mở rộng hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật của địa phương

Chiều ngày 28/10/2025, Bộ Tư pháp tổ chức Hội thảo “Trao đổi, thảo luận về dự thảo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật”. Đồng chí Phan Chí Hiếu, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì Hội thảo. Đồng chủ trì có đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính.
Cần lập Hội đồng tư vấn tham mưu chính sách

Cần lập Hội đồng tư vấn tham mưu chính sách

Ngày 28/10, Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tịnh, Thứ trưởng Phan Chí Hiếu đã chủ trì phiên họp toàn thể Ban Chỉ đạo (BCĐ) của Bộ Tư pháp về thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị.
Điểm mới tại dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về dân sự kỳ vọng giải quyết nhiều vướng mắc, bất cập hiện nay

Điểm mới tại dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về dân sự kỳ vọng giải quyết nhiều vướng mắc, bất cập hiện nay

Sáng ngày 27/10/2025, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của 04 dự thảo: Luật Dẫn độ; Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; Luật Tương trợ tư pháp về hình sự; Luật Tương trợ tư pháp về dân sự. Trong đó có nhiều điểm mới quan trọng góp phần giải quyết những vướng mắc, bất cập trong hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh: Việt Nam sẵn sàng hợp tác toàn diện nhằm xây dựng một không gian mạng an toàn, lành mạnh, thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ các giá trị nhân văn toàn cầu

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh: Việt Nam sẵn sàng hợp tác toàn diện nhằm xây dựng một không gian mạng an toàn, lành mạnh, thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ các giá trị nhân văn toàn cầu

Ngày 25-26/10/2025, Lễ mở ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội) được tổ chức tại Thành phố Hà Nội. Đây là sự kiện quan trọng của Đất nước, mang tầm quốc tế và là Công ước đa phương đầu tiên của Liên hợp quốc được ký tại Hà Nội, thể hiện vai trò, vị thế và uy tín ngày càng cao của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Trong khuôn khổ 08 sự kiện cấp cao của Lễ mở ký Công ước Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh có bài phát biểu quan trọng tại Phiên thảo luận chuyên sâu với chủ đề về: “Bảo vệ công dân trong kỷ nguyên chuyển đổi số - góc nhìn từ Việt Nam”. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư Pháp tại sự kiện.
Tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, tăng cường lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương, chuyên gia trong xây dựng, vận hành các nền tảng dữ liệu quốc gia

Tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, tăng cường lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương, chuyên gia trong xây dựng, vận hành các nền tảng dữ liệu quốc gia

Chiều ngày 24/10/2025, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, Phó Trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo của Bộ Tư pháp về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06 chủ trì phiên họp giao ban tuần của Ban Chỉ đạo.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi