Nguyên tắc mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, đánh dấu sự tiến bộ trong nhận thức về môi trường. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, vấn đề môi trường được gắn kết với vấn đề quyền con người và cũng là lần đầu tiên, trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức, cá nhân được Hiến định cụ thể trong việc bảo vệ môi trường để phát triển bền vững. Tuy nhiên, nội dung và phạm vi của quyền này cũng như việc thực thi quyền trên thực tế như thế nào để đạt được mục đích cải thiện môi trường trong lành cho tất cả mọi người lại là vấn đề khá mới mẻ. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích và làm rõ những căn cứ đánh giá pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành và các phương hướng bảo đảm quyền được sống trong môt trường trong lành.
1. Căn cứ đánh giá pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành
Thứ nhất, tính toàn diện của pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành.
Quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền mới trong Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành” (Điều 43). Tiếp sau đó, nhiều chỉ thị, nghị quyết và hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới quyền con người và bảo vệ môi trường được ban hành, trong đó quan trọng nhất là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Trước đó, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 lần đầu tiên đã cụ thể hóa quy định “mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Khoản 2 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có quy định: “Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để đảm bảo quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành”. Như vậy, trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và năm 2020 đã lần lượt ra đời, kế thừa và khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, luật hóa chủ trương của Đảng, quy định cụ thể hơn nội dung bảo vệ môi trường trong các hoạt động kinh tế, sản xuất, kinh doanh, nhất là trách nhiệm của chủ đầu tư và người đứng đầu cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đồng thời, bổ sung một số nội dung mới nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường trong giai đoạn mới như: Tăng trưởng xanh, biến đổi khí hậu, an ninh môi trường...; hài hòa các quy định của Luật và các cam kết quốc tế về môi trường thể hiện tại các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam đã ký kết, tham gia[1].
Các quy định của pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành tương đối đầy đủ cả ở luật nội dung và hình thức, cũng như tiếp thu những quy định của các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhưng chưa có một cơ chế pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát các hoạt động tác động vào tự nhiên, ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái. Cụ thể, các chế tài chưa thích hợp và chưa đủ mạnh để trừng trị và răn đe những hành vi vi phạm. Vì vậy, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hầu như còn hình thức. Các hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái như gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, chặt phá rừng... vẫn tiếp tục diễn ra, không được ngăn chặn triệt để.
Thứ hai, tính đồng bộ của pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành.
Tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất của pháp luật. Đó là sự đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành. Theo đó, các quy định pháp luật trong lĩnh vực môi trường cần loại bỏ sự trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn. Ở mức độ cao hơn, trong mỗi bộ phận cấu thành này phải tạo ra được một nhóm hoặc một hệ thống quy phạm pháp luật cơ bản để tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của cả bộ phận. Đồng thời, các quy phạm pháp luật cụ thể trong mỗi bộ phận cấu thành, cũng phải thống nhất, không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.
Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật về môi trường khá nhiều nhưng còn thiếu đồng bộ, chưa xác định rõ hướng đi và lộ trình nên một số lĩnh vực chuyên sâu còn thiếu văn bản điều chỉnh. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thực thi pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành gặp khó khăn và hiệu quả không cao. Các văn bản còn chồng chéo, chưa đồng bộ, việc quản lý còn gặp nhiều lúng túng, nhiều vấn đề, văn bản có quy định, nhưng thực thi chưa hiệu quả. Nguyên nhân của thực trạng này là do chồng chéo, ngành nào cũng có bộ phận phụ trách về quản lý môi trường, dưới địa phương cũng có, nhưng cuối cùng lại rất lúng túng trong thực hiện.
Thứ ba, kỹ thuật lập pháp của pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành.
Kỹ thuật pháp lý cao là một vấn đề tương đối rộng, phức tạp. Mỗi một quốc gia, khu vực có quan niệm riêng về trình độ kỹ thuật pháp lý. Khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật, nhà làm luật phải xác định được những nguyên tắc tối ưu nhất, xuyên suốt toàn bộ quá trình này. Đây sẽ là những tư tưởng, ý chí chủ đạo định hướng cho toàn bộ các hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp luật. Ví dụ: Trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành, cơ quan có thẩm quyền phải xác định chính xác những bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật này, vai trò, nhiệm vụ của từng bộ phận. Chương II Hiến pháp năm 2013 quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo đó, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 14); đặc biệt trong Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đã đưa ra những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi trường. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 cũng đưa ra những quy định về điều kiện nhằm thực thi quyền về môi trường như Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo; tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại...
Trình độ kỹ thuật pháp lý cao còn thể hiện ở chỗ ngôn ngữ pháp lý phải bảo đảm tính cô đọng, chính xác, logic và không đa nghĩa. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định về quyền của mọi người dân được sống trong môi trường trong lành, bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân; bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành; tổ chức, hộ gia đình và cá nhân gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải khắc phục, bồi thường thiệt hại. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về quy hoạch môi trường; kế hoạch bảo vệ môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu; thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ; xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường.
Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra cách hiểu về ứng phó với biến đổi khí hậu là các hoạt động của con người nhằm thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Tuy nhiên, có thể thấy Luật vẫn chưa có sự phân định rõ quy định nào là tập trung vào thích ứng với biến đổi khí hậu, còn quy định nào tập trung vào giảm thiểu biến đổi khí hậu. Hơn nữa, các quy định về ứng phó với biến đổi khí hậu trong Luật Bảo vệ môi trường hiện hành vẫn chưa có sự gắn kết chặt chẽ với các quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Điều đó dẫn tới sự thiếu logic trong các quy định pháp luật ảnh hưởng đến quá trình thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay[2].
Thứ tư, tính phù hợp với pháp luật quốc tế.
Trong quá trình mở cửa, hội nhập, Nhà nước Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ môi trường; tích cực, chủ động hoàn thiện pháp luật, xây dựng đồng bộ các chương trình, mục tiêu quốc gia nhằm tạo sự phát triển bền vững, trong đó luôn nhấn mạnh mục tiêu bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Việt Nam cũng được sự giúp đỡ hiệu quả của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế và cá nhân trong việc bảo đảm quyền con người và môi trường. Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền được sống trong môi trường trong lành - một kinh nghiệm quốc tế, được xem như công cụ tiến bộ trong bảo vệ môi trường cũng đang ngày càng được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam.
Hệ thống chính sách và pháp luật về môi trường của Việt Nam vẫn đang trong quá trình tiếp tục được hoàn thiện. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chính sách, pháp luật về môi trường được ban hành, song khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực môi trường còn chưa đầy đủ và thậm chí còn chồng chéo trong một số lĩnh vực cụ thể, gây khó khăn cho việc thực thi các cam kết quốc tế.
Do đó, hoàn thiện pháp luật về môi trường, đặc biệt là pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành cần lưu ý đến việc hợp tác quốc tế liên quan đến vấn đề này. Bởi hợp tác quốc tế giúp Việt Nam có được nhiều lợi thế để bảo vệ, phát triển môi trường, như được hỗ trợ về vốn, về công nghệ, về kinh nghiệm quản lý và về thị trường… Với ý nghĩa đó việc hoàn thiện pháp luật về môi trường ở Việt Nam sẽ phải phù hợp với các điều ước quốc tế và khu vực về vấn đề này, đặc biệt hơn là Việt Nam càng ngày càng phải thực thi nghiêm túc những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, kể cả trường hợp Việt Nam chưa nội luật hóa các điều ước quốc tế đó. Đặc biệt, chúng ta lại chưa xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật môi trường của các tổ chức, cá nhân. Hơn nữa, các cơ quan nhà nước được giao trách nhiệm quản lý về môi trường thì thực hiện không hiệu quả, khi quản lý không được thì các cơ quan, chủ thể này lại không bị xử lý trách nhiệm. Do vậy trong bối cảnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay hoàn thiện pháp luật môi trường cần phải chú ý đến xử lý trách nhiệm của các chủ thể quản lý nhà nước về vấn đề này[3].
Vì vậy, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là hợp tác quốc tế về pháp luật. Đó cơ chế thích hợp để đẩy mạnh hơn nữa việc nội luật hóa các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và xác định rõ hiệu lực pháp lý của cam kết quốc tế. Đồng thời, cần phải xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế tại Việt Nam. Mở rộng hợp tác quốc tế về môi trường trên tinh thần tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế mà nước ta ký kết tham gia và ưu tiên bảo đảm thực thi quyền được sống trong môi trường trong lành.
2. Phương hướng bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành
Thứ nhất, tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục đưa ra các mục tiêu bảo vệ môi trường đến năm 2025[4]. Đây là những mục tiêu rất quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, thúc đẩy bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân. Để đạt được những mục tiêu đó, bên cạnh việc tiếp tục kế thừa các quan điểm được ghi nhận trong các văn kiện Đại hội trước, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quan điểm về bảo vệ môi trường:
- Coi trọng bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Nâng cao chất lượng môi trường không khí, có biện pháp hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, xử lý rác thải ở các đô thị, khu vực đông dân cư.
- Tiếp tục thúc đẩy phát triển bền vững đất nước “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường”.
- Tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của Nhà nước trong quản lý tài nguyên và môi trường. Theo đó, Nhà nước phải quản lý khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên. Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường. Tăng cường kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên, các ngành, doanh nghiệp dựa nhiều vào tài nguyên, các nguồn gây ô nhiễm, nguồn phát thải khí nhà kính.
- Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, bằng việc xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát biến đổi khí hậu; dự báo, cảnh báo thiên tai đến bảo vệ, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, các bon thấp, giảm nguồn phát thải khí nhà kính.
- Cần xây dựng chiến lược an ninh nguồn nước quốc gia. Thúc đẩy hoàn thiện chính sách, pháp luật, nhất là cơ chế tài chính về khai thác, sử dụng tài nguyên nước bảo đảm công bằng, hiệu quả, bền vững trên nguyên tắc của kinh tế thị trường và quản lý tổng hợp nguồn nước, bảo đảm nghiêm ngặt an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt.
- Gắn vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường biển với bảo vệ chủ quyền quốc gia. Thực hiện tốt chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển; phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.
- Thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế và sản xuất thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản xuất tiếp nối, liên tục.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ môi trường là cơ sở quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, trong đó có pháp luật môi trường trong thời gian tới.
Thứ hai, trong những năm qua, việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường tiếp tục được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã có những bước phát triển mới Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Xác định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ cấp bách và có tính chiến lược; phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa[5]. Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội gắn với việc bảo vệ môi trường phải được đặt ra đối với tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề. Những nội dung này phải được ghi nhận trong các nghị quyết của Đảng và phải được thể chế hóa thành quy định của pháp luật và phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước, từng ngành và mỗi địa phương, từ đó mới có thể triển khai Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống. Từ đó, nêu cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong việc lãnh đạo toàn diện công tác bảo vệ môi trường, từ việc đưa ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương cho đến việc chỉ đạo, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trong việc đề ra các biện pháp bảo vệ môi trường ở địa phương theo từng cấp độ phát triển kinh tế - xã hội, vừa có những giải pháp trước mắt vừa có chiến lược lâu dài[6].
Thứ ba, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 1261/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 về Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 166/QĐ- TTg ngày 21/01/2014 về Kế hoạch thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đây là cơ sở quan trọng để huy động sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị trong công tác bảo vệ môi trường. Để thực hiện các mục tiêu trên, cần thực hiện các biện pháp cụ thể như sau:
- Đề cao quyết tâm chính trị trong hoạt động bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành bằng cách nâng cao nhận thức của các nhà lãnh đạo về quyền này.
- Nghiên cứu tổng thể pháp luật về bảo vệ môi trường, tiến hành hệ thống hoá các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này nhằm xây dựng các quy định thống nhất, đồng bộ giữa Luật Bảo vệ môi trường với các luật liên quan nhằm tạo thuận lợi cho quá trình thực thi quyền được sống trong môi trường trong lành.
- Cụ thể hóa nguyên tắc xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường cũng như nâng cao ý thức của người dân trong bảo vệ môi trường và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức tham gia hiệu quả vào quá trình này.
- Đẩy mạnh hoạt động có hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Trong quá trình phát triển cần gắn kết chặt chẽ giữa các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế với chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường[7].
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Lý luận chính trị, số 6, tr. 3.