Thứ sáu 20/06/2025 08:10
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chế độ và các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân ở nước ta hiện nay

Đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là “tế bào” cấu thành HĐND các cấp - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và là chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động của HĐND, đồng thời là cầu nối giữa chính quyền địa phương và nhân dân.

Đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là “tế bào” cấu thành HĐND các cấp - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và là chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động của HĐND, đồng thời là cầu nối giữa chính quyền địa phương và nhân dân.Việc xây dựng và thực hiện chế độ và điều kiện đảm bảo hoạt động đối với đại biểu HĐND có vai trò quan trọng, góp phần quyết định đến hiệu quả thực hiện các quyền hạn và trách nhiệm của đại biểu HĐND. Tuy nhiên, chế độ và điều kiện đảm bảo hoạt động của đại biểu HĐND hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cả về quy định pháp luật và thực tiễn triển khai.

1. Thực trạng pháp luật và một số hạn chế, bất cập

- Về lương, phụ cấp theo lương: Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và Nghị quyết số 1206/2016/NQ-UBTVQH13 ngày 13/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế độ, chính sách và điều kiện đảm bảo hoạt động của đại biểu HĐND, chế độ lương và phụ cấp đối với đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách ở nước ta được thực hiện theo quy định về thang, bảng lương và phụ cấp của cán bộ, công chức. Đối với đại biểu HĐND không hoạt động chuyên trách và không phải là người hưởng lương (kể cả lương hưu) hoặc trợ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước hoặc từ quỹ bảo hiểm xã hội thì được hưởng thù lao theo ngày tính theo hệ số lương cơ bản. Tuy nhiên, các quy định này trong thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế, cụ thể:

+ Hệ thống thang bảng lương được duy trì từ lâu ở nước ta đã cho thấy sự lạc hậu, chưa phản ánh được giá trị của sức lao động và chưa bảo đảm được các chức năng của tiền lương. Việc trả lương không gắn với vị trí việc làm và kết quả thực hiện công việc đã dẫn đến tình trạng cào bằng, bình quân chủ nghĩa. Lương, phụ cấp chưa bảo đảm được mức sống tối thiểu của cán bộ, công chức. Hệ lụy là cán bộ, công chức nói chung, đại biểu HĐND nói riêng khó có thể toàn tâm, toàn ý cho công việc.

+ Quy định về lương, phụ cấp của đại biểu HĐND hiện nay chưa thực sự tương xứng với tính chất phức tạp trong hoạt động của đại biểu HĐND. Khác với cán bộ, công chức thực hiện theo công vụ được giao, hoạt động của đại biểu HĐND mang tính chất thực hiện ủy quyền của nhân dân để quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát việc thực thi các chính sách, pháp luật ở địa phương. Vì vậy, phạm vi và nội dung hoạt động rất đa dạng, “phủ sóng” trên nhiều lĩnh vực khác nhau của địa phương, đòi hỏi đại biểu phải có những phẩm chất, năng lực nổi trội và kỹ năng đặc thù trong tham gia hoạt động của HĐND, giám sát, tiếp xúc cử tri và tiếp công dân. Tuy nhiên, quy định về lương, phụ cấp của đại biểu HĐND và lương của cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy chính quyền địa phương là như nhau, dẫn đến không khẳng định được vị thế của đại biểu, cũng như không tạo được sức “thu hút” đối với “nghề” làm đại biểu dân cử.

+ Đại biểu hoạt động chuyên trách có vai trò, vị trí quan trọng trong đội ngũ đại biểu HĐND các cấp, tuy nhiên, quy định về chế độ lương, phụ cấp không có nhiều khác biệt so với đại biểu HĐND kiêm nhiệm.

- Về hoạt động phí của đại biểu HĐND: Được tính dựa trên mức lương cơ sở, áp dụng cho cả đại biểu chuyên trách và kiêm nhiệm (cấp xã: hệ số 0,3; cấp huyện: hệ số 0,4; cấp tỉnh: hệ số 0,5). Hoạt động phí thực chất là khoản kinh phí mang tính chất phụ cấp trách nhiệm cho đại biểu HĐND, tuy nhiên, định mức này chưa thực sự tương xứng với vai trò đại diện cho nhân dân địa phương và tính chất công việc đại biểu của HĐND. Hiện nay, mức lương cơ sở của nước ta thấp nên mức tiền hoạt động phí quy định theo mức lương cơ sở còn thấp. Quy định về hoạt động phí kế thừa từ quy định của Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên đến nay đã thực hiện được 16 năm, mức hoạt động phí không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay và chưa thực sự khuyến khích đại biểu HĐND hoạt động tích cực.

- Về các phí phí hỗ trợ hoạt động trực tiếp: Do HĐND cấp tỉnh quyết định dựa trên các quy định về chi ngân sách, như chế độ công tác phí; chi bồi dưỡng tham gia kỳ họp; chi cho công tác thẩm tra, lấy ý kiến tham gia các dự án luật của Quốc hội, các đề án, kế hoạch, dự thảo Nghị quyết HĐND; chi cho công tác giám sát, khảo sát; tiếp xúc cử tri; tiếp công dân;… Ngoài ra, còn có các khoản chi có tính đặc thù như chi thăm hỏi, phúng viếng, chi may trang phục, chi chăm sóc sức khỏe, nghỉ dưỡng, chi bồi dưỡng nghiên cứu tài liệu, chi hỗ trợ đại biểu chuyên trách và đại biểu kiêm nhiệm, chi thuê chuyên gia viết bài tham mưu cho Thường trực HĐND. Việc phân quyền cho HĐND cấp tỉnh quy định đã tạo sự chủ động cho chính quyền địa phương trong việc đề ra định mức phù hợp với quy định pháp luật và điều kiện cụ thể của địa phương. Tuy nhiên, cũng vô hình trung gây nên tình trạng mỗi địa phương thực hiện một kiểu, tùy thuộc vào khả năng cân đối nguồn lực, gây nên tình trạng thiếu thống nhất trong việc nhìn nhận, đánh giá và giải quyết chế độ chính sách của đại biểu HĐND. Hơn nữa, các khoản hỗ trợ này giữa nhiều tỉnh, thành phố không đồng đều cả về chế độ chi và định mức. Như vậy, mặc dù có vị trí pháp lý bình đẳng và nhiệm vụ, quyền hạn như nhau nhưng đại biểu HĐND ở các địa phương khác nhau nhận được sự hỗ trợ và bảo đảm điều kiện hoạt động không giống nhau.

- Về bộ máy tham mưu, giúp việc: Mô hình hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và HĐND cấp tỉnh hiện nay là không mới (đã được thực hiện năm 2007 theo Nghị quyết số 545/2007/NQ-UBTVQH12 của UBTVQH). Trước đây, mô hình này cũng bộc lộ những bất cập nhất định. Do cùng lúc phục vụ hai đối tượng khác nhau (ĐBQH và đại biểu HĐND), đã gây nên những khó khăn nhất định trong công tác chỉ đạo điều hành. Mặc dù vậy, mô hình này cũng có ưu điểm trong việc tinh gọn bộ máy, tinh giảm biên chế.

Văn phòng HĐND và UBND cấp huyện là cơ quan phục vụ chung cho cả HĐND và UBND. Tuy nhiên trên thực tế, chủ yếu phục vụ hoạt động của UBND; số lượng, chất lượng chuyên viên phụ trách “mảng” HĐND còn mỏng (thường gồm: 01 Phó Chánh Văn phòng, 1 - 2 chuyên viên, 01 lái xe) nên công tác tham mưu, giúp việc cho HĐND huyện còn hạn chế. Cán bộ, công chức được phân công tham mưu, giúp việc cho HĐND cũng chưa thật sự nhiệt tình, tâm huyết với công việc. Một trong những nguyên nhân là vì làm việc cho HĐND nhưng lại hưởng lương từ kinh phí hoạt động của UBND và do UBND quyết định bổ nhiệm và tuyển dụng.

Tại cấp xã, thường chỉ bố trí một công chức Văn phòng giúp việc chung cho Đảng ủy, HĐND và UBND. HĐND xã chỉ có 01 đại biểu HĐND chuyên trách là Phó Chủ tịch HĐND xã nên công việc của HĐND chủ yếu do đại biểu này đảm nhiệm.

- Về chế độ thông tin: Đại biểu HĐND có quyền yêu cầu cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 99 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Tuy nhiên, nhiều đại biểu chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa đầy đủ quyền này. Điều này có thể do bản thân đại biểu chưa nhận thức đầy đủ về quyền yêu cầu cung cấp thông tin, hoặc chưa có thói quen sử dụng quyền yêu cầu thông tin trong hoạt động; hoặc khó khăn từ các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Nguồn thông tin cung cấp còn thiếu các thông tin đa dạng, đa chiều, nhất là thông tin mang tính chất nghiên cứu, phản biện.

- Về đào tạo, bồi dưỡng: Do chưa có quy định riêng về đào tạo, bồi dưỡng đối với đại biểu HĐND các cấp, việc thực hiện dựa trên trên cơ sở quy định chung của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức. Hiệu quả đạt được còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu. Chưa có quy định về quyền và trách nhiệm tham gia các chương trình bồi dưỡng của đại biểu HĐND, trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân hữu quan quản lý đại biểu HĐND (nơi đại biểu công tác, làm việc) trong việc tạo điều kiện về thời gian để đại biểu tham gia các hoạt động này.

- Về thi đua, khen thưởng: Việc thi đua, khen thưởng cho đại biểu HĐND được áp dụng tương tự cán bộ, công chức, viên chức theo Luật Thi đua khen thưởng. Thực tiễn cho thấy việc đánh giá, phân loại và xét khen thưởng đối với đại biểu HĐND gặp khó khăn do chưa có quy định về cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đánh giá, phân loại đại biểu HĐND. Hơn nữa, đại biểu HĐND là đại diện cho cử tri địa phương, hoạt động của đại biểu có hiệu quả không, có phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân địa phương hay không phải phụ thuộc vào đánh giá của cử tri, của nhân dân ở địa phương đó.

2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật

Thứ nhất, về chế độ tiền lương: Đối với đại biểu hoạt động chuyên trách, việc hoàn thiện quy định về lương của đại biểu HĐND hiện nay cần đảm bảo mục tiêu đã được đề ra tại Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp. Cần đảm bảo nguyên tắc gắn với vị trí việc làm, gắn với chức danh, chức vụ lãnh đạo, thực hiện theo bảng lương áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo (bầu cử và bổ nhiệm).

Đối với đại biểu HĐND hoạt động không chuyên trách thuộc đối tương được chi trả tiền công lao động theo ngày thực tế thực hiện nhiệm vụ, do mức lương cơ sở sẽ bị xóa bỏ nên cần xác định định mức phù hợp cho việc chi trả tiền công lao động. Đề xuất lấy mức lương thấp nhất của đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách cùng cấp để làm cơ sở tính tiền công cho nhóm đối tượng này. Thay vì tiền công theo ngày có thể thực hiện khoán tiền công lao động và tính theo mức bằng 1/3 mức lương thấp nhất của đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách cùng cấp.

Thứ hai, về phụ cấp: Đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách hiện nay được hưởng phụ cấp chức vụ, phụ cấp công vụ, phụ cấp thâm niên. Sắp tới các khoản phụ cấp này sẽ bị bãi bỏ và tính vào lương. Đứng từ góc độ vị trí và việc làm thì việc đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách hưởng lương, phụ cấp giống như đại biểu kiêm nhiệm như quy định hiện hành là chưa phù hợp. Vì vậy, trước mắt để tăng thu nhập và góp phần hỗ trợ đại biểu HĐND chuyên trách trong hoạt động, giúp đại biểu an tâm cống hiến, đề nghị nên bổ sung khoản phụ cấp ưu đãi cho đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách và gọi đây là phụ cấp nghề. Đề nghị xây dựng phụ cấp nghề cho đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách tối đa bằng 30% lương cơ bản.

Thứ ba, về hoạt động phí: Nếu xem hoạt động phí như khoản hỗ trợ để giúp đại biểu HĐND thực hiện trách nhiệm đại biểu, có thể chuyển hoạt động phí thành một dạng phụ cấp trách nhiệm công việc cho đại biểu HĐND theo tinh thần của Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Hoạt động phí như quy định hiện nay còn thấp, do đó để tăng hỗ trợ cho đại biểu, có thể quy định theo hướng không chi trả theo một khoản kinh phí cố định cho hoạt động của đại biểu HĐND mà chi trả theo hình thức là một khoản kinh phí được tính dựa trên những chi phí phát sinh cho hoạt động của đại biểu HĐND mà cơ quan, tổ chức, bộ máy giúp việc không trực tiếp chi trả trong quá trình đại biểu hoạt động, nhằm bù đắp những chi phí và hao tổn sức lao động mà đại biểu bỏ ra để thực hiện các nhiệm vụ của mình.

Thứ tư, về các khoản chi hỗ trợ trực tiếp: Tiếp tục phân quyền cho HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quy định cụ thể các khoản chi hỗ trợ trực tiếp cho đại biểu HĐND ở địa phương mình cho phù hợp với điều kiện và nhu cầu cụ thể của địa phương đó. Sắp xếp lại các khoản chi này theo hướng bãi bỏ những khoản chi mang tính trùng lắp, đã được tính vào lương hoặc thù lao (như công tác phí và chi bồi dưỡng họp) và thực hiện khoán chi cho những hỗ trợ cần thiết để đảm bảo hoạt động cho đại biểu HĐND. HĐND các tỉnh tùy vào điều kiện cụ thể của địa phương mình có thể quy định khoán chi để hỗ trợ cho đại biểu trong các hoạt động đặc thù như: tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Bên cạnh đó, cần có khoản chi hỗ trợ chi phí thuê chuyên gia đối với đại biểu HĐND chuyên trách để hỗ trợ đại biểu trong việc thảo luận, góp ý kiến vào các đề án, báo cáo, dự thảo nghị quyết của HĐND và đưa ra các quyết định đúng đắn trong biểu quyết thông qua các quyết nghị về các vấn đề quan trọng của địa phương.

Thứ năm, về bộ máy tham mưu, giúp việc: Đối với cấp tỉnh, cần tập trung vào tăng cường năng lực, chất lượng hoạt động của Văn phòng Đoàn ĐBQH các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đối với cấp huyện, Văn phòng HĐND và UBND cần được tổ chức theo hướng là bộ máy tham mưu, giúp việc và phục vụ chính các cơ quan HĐND cấp huyện; tham mưu, giúp việc UBND là cơ sở để thực hiện tốt nhiệm vụ của HĐND. Bên cạnh đó, nên giao Thường trực HĐND cấp huyện quyết định thành lập, bổ nhiệm lãnh đạo, tuyển dụng công chức, nhân viên và quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Văn phòng HĐND và UBND. Điều này sẽ giúp tạo ra một bộ máy tham mưu, giúp việc chuyên tâm với hoạt động của HĐND.

Thứ sáu, chế độ thông tin: Ban hành Quy chế về cung cấp thông tin phục vụ hoạt động của đại biểu HĐND, trong đó chi tiết hóa trách nhiệm và nghĩa vụ cung cấp thông tin của các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm. Quy định rõ trách nhiệm đối với những cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân không thực hiện đầy đủ, kịp thời, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu.

Thứ bẩy, chế độ học tập, đào tạo, bồi dưỡng: Cần quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm tham gia các chương trình bồi dưỡng của đại biểu HĐND trong Quy chế hoạt động của HĐND các cấp. Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân hữu quan quản lý đại biểu HĐND (nơi đại biểu công tác, làm việc) trong việc tạo điều kiện về thời gian để đại biểu tham gia các hoạt động về bồi dưỡng.

Thứ tám, chế độ thi đua, khen thưởng: Căn cứ Luật Thi đua khen thưởng và đặc thù hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND các cấp, ban hành văn bản hướng dẫn chung về thi đua, khen thưởng cho đại biểu HĐND các cấp. Trong đó, đề nghị khen thưởng cho HĐND và đại biểu HĐND cấp huyện, xã do Thường trực HĐND cấp tỉnh quyết định. Khen thưởng cho HĐND cấp tỉnh, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cấp tỉnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định./.

ThS. Đặng Thị Tuyết Trinh
Trung tâm Thông tin khoa học lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm