1. Về vị trí của chế định tài sản
Theo cách thức được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005, chế định tài sản được quy định cùng với chế định quyền sở hữu tại Phần thứ 2 của Bộ luật. Với cách thức kết cấu này, nhiều nhận thức sai lầm cho rằng tài sản chỉ là đối tượng của quyền sở hữu. Trái ngược lại, tài sản là chế định trung tâm, cốt lõi trong Bộ luật Dân sự của bất cứ một quốc gia nào, chi phối và ảnh hưởng tới nhiều các chế định khác. Tài sản không chỉ là đối tượng của quyền sở hữu mà tài sản còn là đối tượng của nhiều quan hệ dân sự như: Quan hệ thừa kế, quan hệ nghĩa vụ - hợp đồng, quan hệ bồi thường thiệt hại...
Nhận thức đúng đắn về chức năng và vai trò của chế định tài sản, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tách chế định tài sản khỏi phần quyền sở hữu và quy định thành một chương riêng, cụ thể là Chương VII (từ Điều 105 đến Điều 115) thuộc Phần thứ nhất - Những quy định chung. Kết cấu này đã khẳng định được chế định tài sản là chế định trung tâm của Bộ luật Dân sự, là đối tượng của nhiều quan hệ dân sự khác nhau. Đồng thời, việc quy định này đã tạo nên sự nhận thức thống nhất về vị trí, vai trò của chế định tài sản, tránh sự tranh cãi không cần thiết về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật.
2. Về khái niệm tài sản
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng[1]. Trong Bộ luật Dân sự năm 2005, tại Điều 163 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Định nghĩa về tài sản được ghi nhận theo phương thức liệt kê - đây là phương pháp xác định cụ thể các loại tài sản. Ưu điểm của phương thức này là đã quy định các loại tài sản một cách rõ ràng và dễ hiểu. Tuy vậy, điểm hạn chế của phương pháp liệt kê là không thể hiện được bản chất hay đặc trưng của tài sản. Đồng thời, phương pháp liệt kê sẽ không bao quát được đầy đủ các loại tài sản, đặc biệt khi nhiều loại tài sản mới phát sinh trên thực tế theo sự phát triển kinh tế, xã hội.
Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, định nghĩa về tài sản được tái quy định tại Điều 105 như sau:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Từ quy định trên có thể kết luận, phương thức liệt kê vẫn tiếp tục được sử dụng trong định nghĩa tài sản (đây là điểm kế thừa trong Bộ luật Dân sự năm 2005). Bên cạnh điểm tương đồng đó, so với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định về tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có hai điểm sửa đổi quan trọng sau đây:
Thứ nhất, Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “tài sản bao gồm…” thì Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 sửa đổi thành “tài sản là…”. Đây không phải là thay đổi mang tính căn bản; sự thay đổi này không tạo ra sự khác biệt bản chất giữa hai khái niệm về tài sản được ghi nhận trong hai Bộ luật Dân sự.
Cơ sở cho sự thay đổi này xuất phát từ khuôn mẫu của quy phạm định nghĩa. Quy phạm định nghĩa là những quy phạm nhằm giải thích nội hàm cho thuật ngữ pháp lý. Cách thức ghi nhận phổ biến của quy phạm định nghĩa là thuật ngữ cần quy định hay cần giải thích và theo ngay sau đó là liên từ “là”. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua nhiều quy phạm định nghĩa trong Bộ luật Dân sự năm 2015 như khoản 1 Điều 5: “Tập quán là quy tắc xử sự...”; khoản 1 Điều 16: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”; khoản 1 Điều 25: “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác...”; Điều 385: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”... Thực chất Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thuộc nhóm quy phạm định nghĩa; do đó, để đúng với chuẩn mực của quy phạm định nghĩa và đồng thời tương thích với các quy phạm định nghĩa khác được ghi nhận trong Bộ luật mà Ban soạn thảo luật đã thay thuật ngữ “bao gồm” thành thuật ngữ “là”.
Thứ hai, khoản 2 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm về các cách thức phân loại tài sản cơ bản so với Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005, theo đó: “Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Đây là điểm mới được đánh giá tích cực so với quy định cũ. Trong quá trình xây dựng Bộ luật Dân sự năm 2015, bên cạnh việc nghiên cứu các cơ sở thực tiễn làm nền tảng cho việc sửa đổi thì Ban soạn thảo rất chú trọng đến việc học hỏi kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia trên thế giới. Thông qua việc tìm hiểu Bộ luật Dân sự Pháp, Đức, Canada, Nga… thì có thể nhận thấy định nghĩa về tài sản của các quốc gia này đều hàm chứa một số cách thức phân loại tài sản cơ bản. Điều 899 Bộ luật Dân sự Quesbec (Canada) quy định: Tài sản, dù hữu hình hay vô hình, được phân chia thành bất động sản và động sản; Điều 516 Bộ luật Dân sự Pháp ghi nhận: Tài sản chia thành động sản và bất động sản; Điều 128 Bộ luật Dân sự Liên Bang Nga: Tài sản gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
Qua các phân tích trên có thể kết luận rằng, những điểm mới về khái niệm tài sản được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2015 được xây dựng dựa trên ba cơ sở chính sau đây: (i) Xuất phát từ chính những hạn chế, bất cập tại Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005; (ii) Xuất phát từ phương thức phổ biến khi xây dựng quy phạm định nghĩa; (iii) Xuất phát từ việc học tập kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài.
3. Bổ sung thêm quy định về tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai
Bộ luật Dân sự năm 2005 đã tạo ra một khoảng trống lớn khi chỉ ghi nhận về động sản và bất động sản mà không quy định về tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Khắc phục điểm hạn chế này, Điều 108 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận: “1. Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.
2. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm:
a) Tài sản chưa hình thành;
b) Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch”.
Theo quy định trên, cơ sở để phân định tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai gồm:
- Sự hình thành của tài sản tại thời điểm hiện tại;
- Thời điểm xác lập sở hữu đối với tài sản so với thời điểm xác lập giao dịch.
Để được thừa nhận là một tài sản hiện có thì cần đáp ứng đầy đủ hai điều kiện: (i) Đã hình thành; (ii) Chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch. Nếu một tài sản không đáp ứng một trong hai điều kiện này thì tài sản đó không được coi là tài sản hiện có mà được xếp sang nhóm tài sản hình thành trong tương lai. Bởi vậy, đây chính là nguyên nhân tài sản hình thành trong tương lai được phân thành hai loại:
- Tài sản chưa hình thành, đây là loại tài sản chưa có tại thời điểm hiện tại. Ví dụ: Nhà chung cư đang xây dựng chưa hoàn thành…
- Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch (trường hợp này thường áp dụng đối với các tài sản hình thành trong tương lai thuộc nhóm tài sản phải đăng kí sở hữu).
Việc bổ sung quy định về tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn. Với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, xã hội thì tài sản hình thành trong tương lai ngày càng trở nên phổ biến, là đối tượng thường xuyên trong các hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, thế chấp... (đặc biệt đối tài sản là nhà ở hình thành trong tương lai). Tầm quan trọng và ý nghĩa của loại tài sản này trong đời sống xã hội là điều không thể phủ nhận nhưng trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì quy định về tài sản hình thành trong tương lai chỉ được ghi nhận trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) mà chưa được chính thức ghi nhận trong Bộ luật. Việc bổ sung quy định về tài sản hình thành trong tương lai đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xã hội nước ta hiện nay.
4. Sửa đổi, bổ sung khái niệm về quyền tài sản
Quyền tài sản chính là các loại tài sản vô hình, không nhìn thấy hay cầm nắm được. Điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã sửa đổi để làm rõ hơn về loại tài sản này, cụ thể: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. So với quy định về quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định này có một số điểm mới sau đây:
Thứ nhất, Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 không tái quy định điều kiện quyền tài sản phải có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Điều này được hiểu, quyền tài sản có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự hoặc không. Có ý kiến cho rằng: Điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định một trong những điều kiện để trở thành quyền tài sản thì đối tượng đó phải có khả năng chuyển giao trong giao dịch dân sự. Điều này dẫn đến nhiều quyền có giá trị về vật chất nhưng pháp luật có những quy định không có phép chuyển giao (như quyền mua nhà ở tái định cư) hoặc quyền đòi bồi thường do xâm phạm tới yếu tố nhân thân nên gây ra những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật[2]. Đồng tình với quan điểm này, tác giả cho rằng 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 bỏ hẳn yếu tố “có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự” là phù hợp.
Thứ hai, Điều 183 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định không chính xác khi ghi nhận quyền tài sản bao gồm quyền sở hữu trí tuệ. Bởi lẽ, quyền sở hữu trí tuệ gồm cả quyền nhân thân và quyền tài sản. Cách thức ghi nhận như trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đã bao quát hết các quyền nhân thân của quyền sở hữu trí tuệ. Khắc phục điểm bất cập này, Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rõ “quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ” - Điều luật này đã liệt kê và chỉ rõ phạm vi những quyền được coi là quyền tài sản, tránh được sự nhầm lẫn với một số quyền nhân thân.
Thứ ba, Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã chấm dứt các tranh cãi trên thực tế liên quan đến bản chất của quyền sử dụng đất với sự bổ sung rõ ràng: “Quyền tài sản… bao gồm… quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Do đặc thù của nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân; do đó, cá nhân hay các chủ thể khác chỉ có quyền sở hữu đối với “quyền sử dụng đất”. Trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành, tại Điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền tài sản chưa ghi nhận cụ thể về quyền sử dụng đất nên cả về lý luận và thực tiễn, còn nhiều quan điểm trái chiều nhau liên quan đến loại tài sản này, có quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất chính là quyền tài sản; còn quan điểm ngược lại phủ nhận nội dung này. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã giải quyết được lỗ hổng này trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
Qua các phân tích trên có thể thấy, nền tảng quan trọng nhất cho sự sửa đổi, bổ sung quy định về quyền tài sản chính là xuất phát từ những điểm hạn chế, bất cập của quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 về quyền tài sản.
5. Về đăng ký tài sản
Đăng ký quyền sở hữu là việc chính thức ghi vào văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền những thông tin cần thiết liên quan đến tài sản để làm cơ sở phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp lý của chủ sở hữu tài sản đối với một tài sản nhất định[3]. Việc đăng ký quyền sở hữu tài sản có hai mục đích cơ bản như: (i) Công nhận quyền và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu; (ii) Góp phần bảo đảm sự minh bạch của các giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản đó.
Vấn đề đăng kí quyền sở hữu đối với tài sản được ghi nhận tại Điều 167 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Quyền sở hữu đối với bất động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký bất động sản. Quyền sở hữu đối với động sản không phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Bên cạnh Bộ luật Dân sự năm 2005, các văn bản quy định về trình tự, thủ tục đăng ký bất động sản, quy định về tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu cũng được xây dựng. Qua việc nghiên cứu cũng như qua thực tế áp dụng quy định về đăng ký quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2005 thì có thể thấy rằng, vấn đề này cũng mắc phải một số bất cập sau: Điều 167 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định ở việc đăng ký quyền sở hữu tài sản mà chưa quy định việc đăng ký với quyền khác đối với tài sản; đối với quy trình, thủ tục đăng ký thì vấn đề công khai việc đăng ký là nội dung quan trọng, có ý nghĩa thiết thực trên thực tế nhằm minh bạch hóa các giao dịch, hạn chế hiệu quả các vụ lừa đảo tài sản thông qua mua bán, thế chấp… Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2005 lại chưa có quy định ràng buộc pháp lý cho vấn đề này.
Xuất phát từ những cơ sở trên, Điều 106 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về vấn đề đăng ký tài sản như sau:
“1. Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký tài sản.
2. Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản không phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác.
3. Việc đăng ký tài sản phải được công khai”.
Quy định trên có hai điểm mới quan trọng đó là: (i) Việc quy định đăng ký được mở rộng, áp dụng không chỉ với tài sản mà còn bao gồm đăng ký quyền khác đối với tài sản; (ii) Để bảo đảm tính minh bạch, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định các thông tin về tài sản đã đăng ký phải được công khai.
Cũng như các điểm mới khác, cơ sở để sửa đổi, bổ sung quy định về đăng ký tài sản trước hết xuất phát từ những hạn chế tồn tại trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Hơn thế nữa, với bổ sung quy định bắt buộc công khai việc đăng ký xuất phát từ đòi hỏi cấp thiết từ thực tế. Trong thời gian vừa qua, tại nước ta xảy ra liên tiếp các vụ lừa đảo, chiếm đoạt tài sản thông qua các giao dịch như mua bán, tặng cho, thế chấp tài sản… Một phần nguyên nhân dẫn đến thực trạng này xuất phát từ chính sự yếu kém trong hoạt động đăng ký và công khai thông tin đăng ký của nước ta. Do vậy, việc bắt buộc công khai thông tin đăng ký tài sản nhằm minh bạch hóa thị trường, hạn chế thấp nhất các vụ việc lừa đảo trên thực tế.
Liên quan đến quy trình, thủ tục đăng ký tài sản, Nhật Bản là quốc gia có luật riêng về vấn đề này; bên cạnh đó, hệ thống đăng ký tài sản ở Nhật Bản tương đối hoàn thiện và hoạt động hiệu quả. Trong quá trình sửa đổi, bổ sung quy định về đăng ký tài sản, Việt Nam học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ Nhật Bản. Chia sẻ kinh nghiệm về hệ thống đăng ký bất động sản, đại diện đến từ Bộ Tư pháp Nhật Bản nhấn mạnh “đăng ký bất động sản nhằm quản lý tốt hơn thông tin về lãnh thổ như xác định rõ vị trí, kế hoạch sử dụng, tình trạng sử dụng, diện tích, người sử dụng, giá đất, thuế… của bất động sản; điều kiện cơ bản nhất của đăng ký tài sản chính là tính minh bạch, sự công khai với những cấp quyền thông tin khác nhau, từ đó tránh được những rủi ro trong giao dịch dân sự nói chung và giao dịch dân sự bảo đảm nói riêng…”[4]. Các kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới nói chung, kinh nghiệm của Nhật Bản nói riêng liên quan đến đăng ký tài sản là cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam học hỏi để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về nội dung này.
ThS.NCS. Lê Thị Giang
Đại học Luật Hà Nội
Tài liệu tham khảo:
[1] ThS. Huỳnh Trung Hậu “Tìm hiểu một số điểm mới về chế định tài sản trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015”, Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân số 72 (tháng 2/2016).
[2] PGS.TS Đỗ Văn Đại (chủ biên): “Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015”, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam”, 2016, tr.125.
[3] ThS. Huỳnh Trung Hậu “Tìm hiểu một số điểm mới về chế định tài sản trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015”, Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân số 72 (tháng 2/2016).
[4] “Hội thảo trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm lập pháp của Nhật Bản trong lĩnh vực đăng ký tài sản, khuyến nghị xây dựng Luật Đăng ký tài sản tại Việt Nam” ngày 09/2/2017, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp đã phối hợp với JICA, http://hoptacquocte.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/tin-hoat-dong.aspx?ItemID=423, ngày truy cập: 28/05/2018.