1. Những điểm tương đồng về quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp trong Luật Sở hữu trí tuệ với các điều ước quốc tế
1.1. Những điểm tương đồng về quyền tác giả, quyền liên quan
Thứ nhất, các công ước quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan được xây dựng trên nguyên tắc đối xử quốc gia. Trong đó gồm có Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật - Đạo luật Paris 1971 (Công ước Berne), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng 1961 (Công ước Rome), Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ 1994 (Hiệp định TRIPS), Hiệp ước WIPO về quyền tác giả 1996 (Hiệp ước WCT) và Hiệp ước WIPO về biểu diễn và bản ghi âm 1996 (Hiệp ước WPPT). Đối xử quốc gia và tối huệ quốc là nguyên tắc nền tảng của hệ thống pháp luật WTO. Việt Nam xây dựng, ban hành Luật Sở hữu trí tuệ dựa trên cơ sở tham khảo, tôn trọng nguyên tắc này.
Thứ hai, với mục đích bảo vệ quyền tác giả, thuật ngữ “các tác phẩm văn học và nghệ thuật” được hiểu là tất cả sự sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học của tác giả, thể hiện dưới bất kỳ phương tiện hay hình thức nào (Điều 2 Công ước Berne). Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 (Luật Sở hữu trí tuệ) đã liệt kê các loại hình tác phẩm được bảo hộ, các loại hình tác phẩm được liệt kê đầy đủ phải được bảo vệ bởi Công ước Berne và Liên minh các thành viên. Như vậy, đối tượng bảo hộ quyền tác giả của Luật Sở hữu trí tuệ tương đồng với Điều 2 Công ước Berne.
Thứ ba, đối với cơ sở dữ liệu, tại khoản 2 Điều 10 Hiệp định TRIPS và Điều 5 Hiệp ước WCT thừa nhận “sưu tập dữ liệu” được áp dụng theo Điều 2 Công ước Berne, bởi sự sắp xếp cơ sở dữ liệu là sự sáng tạo trí tuệ, phải được bảo vệ như một tác phẩm văn học nghệ thuật. Những sáng tạo để sưu tập dữ liệu được bảo hộ như một tác phẩm phải hội tụ đủ tất cả các thông tin trong sự sáng tạo của con người. Tuy nhiên, Công ước Berne không quy định bảo hộ sưu tập dữ liệu vì cho rằng nó không phải là sự sáng tạo trí tuệ, hay có dấu ấn cá nhân “tác giả” nên không thuộc phạm vi của Công ước này. Luật Sở hữu trí tuệ bảo hộ sưu tập dữ liệu như một tác phẩm văn học (khoản 2 Điều 22). Như vậy, quy định này của luật Việt Nam tương đồng với Hiệp định TRIPS và Hiệp ước WCT.
Thứ tư, về chương trính máy tính được các điều ước quốc tế, Luật Sở hữu trí tuệ bảo hộ như một tác phẩm văn học. Việc sản xuất một chương trình máy tính phức tạp là một sự sáng tạo. Điều 4 Hiệp ước WCT và Điều 10 Hiệp định TRIPS đã hoàn thiện việc bảo hộ chương trình máy tính như một tác phẩm theo Công ước Berne. Điều 22 Luật Sở hữu trí tuệ quy định bảo hộ chương trình máy tính như một tác phẩm văn học, tương đồng với điều ước quốc tế này.
Thứ năm, về cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng, Luật Sở hữu trí tuệ, các điều ước quốc tế đều quy định rõ việc bảo hộ các quyền của người biểu diễn, bản ghi âm và tổ chức phát sóng là các quyền liên quan đến quyền của tác giả. Tuy nhiên, tại Điều 14 Hiệp định TRIPS thì chỉ bảo hộ những người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát thanh, truyền hình (điều này được hiểu là Hiệp định TRIPS không bảo hộ tác phẩm ghi hình). Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép không được phép bản ghi âm của họ 1971 đã không bảo hộ bản ghi hình (điểm khác biệt này sẽ được tác giả làm rõ ở phần nghiên cứu sau).
1.2. Những điểm tương đồng về quyền sở hữu công nghiệp
Trong phần này, tác giả nêu ra những điểm tương đồng về 05 đối tượng sở hữu công nghiệp là sáng chế, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp và bí mật kinh doanh.
Thứ nhất, bằng sáng chế (patent)
Theo khoản 1 Điều 27 Hiệp định TRIPS thì các thành viên cấp patent cho bất kỳ một sáng chế nào, dù là sản phẩm hay quy trình thuộc mọi lĩnh vực công nghệ, với điều kiện sáng chế phải có tính mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp, đồng thời, các quyền patent được hưởng không phân biệt nơi tạo ra sáng chế, lĩnh vực công nghệ và bất kể sản phẩm được nhập khẩu hay sản xuất trong nước. Theo khoản 4 Điều 1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp 1883 (Công ước Paris), patent bao gồm các loại patent công nghiệp khác nhau được pháp luật các nước thành viên Liên minh thừa nhận, chẳng hạn như patent nhập khẩu, patent hoàn thiện, patent và giấy chứng nhận bổ sung.
Khoản 12 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”. Điều kiện bảo hộ sáng chế của Luật Sở hữu trí tuệ hoàn toàn phù hợp với Hiệp định TRIPS, bao gồm tính mới, tính sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp (Điều 58 Sở hữu trí tuệ).
Ngoài ra, Hiệp định TRIPS (khoản 2 Điều 27) cũng đưa ra 03 trường hợp ngoại lệ cho các quốc gia loại trừ không cấp patent: (i) Những sáng chế trái với trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội; (ii) Các phương pháp chuẩn đoán bệnh, các phương pháp nội và ngoại khoa để chữa bện cho người và động vật; (iii) Thực vật và động vật không phải là các chủng vi sinh, và các quy trình sản xuất thực vật và động vật khác là quy trình phi sinh học và vi sinh.
Như vậy, quy định về đối tượng loại trừ của Hiệp định TRIPS dẫn đến hai hệ lụy: Một là, những nước là thành viên Hiệp định TRIPS sẽ quy định đối tượng loại trừ cấp patent theo Hiệp định TRIPS, trong đó có Việt Nam[1]; hai là, những quốc gia không phải là thành viên Hiệp định TRIPS có quyền bảo hộ các phương pháp chữa bệnh cho người và động vật như vậy sẽ dẫn đến những tranh chấp phát sinh từ quy định này. Việt Nam cần chú ý đến hệ luỵ thứ hai để hạn chế những tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên, về cơ bản, những quy định của Luật Sở hữu trí tuệ đã tương đồng với quy định của Hiệp định TRIPS.
Điều 18.38 về thời gian gia hạn (ân hạn) trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiễn bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP) yêu cầu: “Mỗi bên sẽ bỏ qua ít nhất là thông tin chứa trong các thuyết minh công khai được sử dụng để xác định một sáng chế có mới lạ hay có trình độ sáng tạo nếu bản thuyết minh công khai: (a) được thực hiện bởi người nộp đơn sáng chế hoặc bởi một người có những thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp từ người nộp đơn sáng chế; và (b) xảy ra trong vòng 12 tháng trước ngày nộp đơn xin cấp bằng sáng chế trong lãnh thổ của mình”. Điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ đã sửa đổi ân hạn từ 06 tháng lên 12 tháng, điều này hoàn toàn tương đồng với Hiệp định CPTPP.
Thứ hai, nhãn hiệu
Khoản 1 Điều 15 Hiệp định TRIPS quy định dấu hiệu có khả năng được bảo hộ nhãn hiệu: Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu, bao gồm dấu hiệu nhìn thấy được (như các chữ cái, các chữ số, các yếu tố hình họa) và dấu hiệu không nhìn thấy được (như âm thanh, mùi, vị) có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể được đăng ký làm nhãn hiệu.
Theo khoản 6 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Đồng thời, Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ quy định, nhãn hiệu được bảo hộ phải đáp ứng được các điều kiện: (i) Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; (ii) Có khả năng phân biệt với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Như vậy, Luật Sở hữu trí tuệ chỉ bảo hộ những nhãn hiệu “nhìn thấy được”, trong khi đó, Hiệp định TRIPS bảo hộ cả những nhãn hiệu “không nhìn thấy được” (tác giả sẽ làm rõ hơn vấn đề này ở mục khác biệt về nhãn hiệu).
Về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 16 Hiệp định TRIPS, cung cấp sự bảo hộ bổ sung cho nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại Điều 6Bis Công ước Paris. Hiệp định TRIPS khẳng định rằng, Điều 6Bis Công ước Paris phải được áp dụng với những sửa đổi thích hợp đối với các dịch vụ. Để xác định nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, không chỉ phải xem xét danh tiếng của nhãn hiệu đó trong bộ phận công chúng có liên quan thông qua sử dụng nhãn hiệu mà còn phải thông qua hoạt động quảng cáo nhãn hiệu.
Theo khoản 20 Điều 4 Luật Công ước Paris, nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Điều 75 Luật này liệt kê các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng. Như vậy, đối với nhãn hiệu nối tiếng, Luật Sở hữu trí tuệ tương đồng với các quy định của điều ước quốc tế.
Thứ ba, chỉ dẫn địa lý
Theo khoản 1 Điều 22 Hiệp định TRIPS: Chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định. Hiệp định TRIPS đề cập đến các tiêu chí: (i) Chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý; (ii) Hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý phải bắt nguồn từ lãnh thổ hoặc khu vực, địa phương thuộc lãnh thổ đó; (iii) Hàng hóa có chất lượng, danh tiếng hoặc đặc tính nhờ xuất xứ địa lý quyết định.
Theo khoản 22 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Điều kiện chung về bảo hộ chỉ dẫn địa lý quy định tại Điều 79 Luật Sở hữu trí tuệ: (i) Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý; (ii) Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định.
Như vậy, thuật ngữ chỉ dẫn địa lý được bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ phù hợp với định nghĩa chỉ dẫn địa lý của Hiệp định TRIPS.
Thứ tư, kiểu dáng công nghiệp
Khoản 1 Điều 25 Hiệp định TRIPS yêu cầu các thành viên WTO phải bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp mới hoặc nguyên gốc được tạo ra một cách độc lập và sự bảo hộ đó không áp dụng cho những kiểu dáng công nghiệp chủ yếu do đặc tính kỹ thuật và chức năng quyết định. Khoản 13 Điều 4 Sở hữu trí tuệ quy định, kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này. Điều 63 Luật này quy định chung về điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp như tính mới, tính sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Như vậy, quy định bảo hộ kiểu dáng công nghiệp của Luật Sở hữu trí tuệ hoàn toàn tương đồng với Hiệp định TRIPS.
Tuy nhiên, xuất phát từ mối liên hệ không phủ nhận giữa kiểu dáng công nghiệp và ngành công nghiệp dệt, thời gian tồn tại ngắn của những kiểu dáng mới trong lĩnh vực dệt, tại khoản 2 Điều 25 Hiệp định TRIPS có quy định riêng về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cho hàng dệt. Quy định này dẫn đến những xung đột của luật Việt Nam giữa kiểu dáng công nghiệp và quyền tác giả; kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu.
Thứ năm, bí mật thương mại
Khoản 1 Điều 39 Hiệp định TRIPS chỉ rõ rằng, việc bảo hộ bí mật kinh doanh nhằm đảm bảo “chống cạnh tranh không lành mạnh một cách hiệu quả”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 39 Hiệp định TRIPS cũng quy định, những thông tin bí mật là phải có tính chất bí mật, có giá trị thương mại và được giữ bí mật bằng các biện pháp hợp lý. Đồng thời, theo khoản 3 Điều 39, “các dữ liệu thử nghiệm và dữ liệu bí mật khác trong trường hợp phải nộp dữ liệu theo yêu cầu của chính phủ để được phép tiếp thị dược phẩm hoặc các sản phẩm hóa nông có chứa những thành phần hóa học mới”.
Theo khoản 23 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ, bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong quá trình kinh doanh. Điều 84 Luật Sở hữu trí tuệ quy định điều kiện bảo hộ đối với bí mật kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện sau: (i) Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được; (ii) Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó; (iii) Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được. Như vậy, quy định về bảo hộ bí mật kinh doanh của Sở hữu trí tuệ hoàn toàn tương đồng với quy định của Hiệp định TRIPS.
2. Đánh giá điểm khác biệt về quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp trong Luật Sở hữu trí tuệ với các điều ước quốc tế
2.1. Khác biệt về quyền tác giả, quyền liên quan
Thứ nhất, Hiệp ước WCT và Hiệp ước WPPT
Đây là 02 văn bản quan trọng trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan. Đến nay, Việt Nam chưa trở thành thành viên của hai hiệp ước quốc tế này. Gần đây nhất là hai Hiệp định thế hệ mới (FTA) là Hiệp định CPTPP và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (Hiệp định EVFTA) đều đặt ra yêu cầu chúng ta phải tham gia Hiệp ước WCT và Hiệp ước WPPT.
Thứ hai, Hiệp định CPTTP
Điểm 2 Điều 18.7 yêu cầu: “Mỗi bên phải phê chuẩn hoặc tham gia vào từng thỏa thuận sau đây (nếu chưa tham gia) trước thời điểm Hiệp định này có hiệu lực đối với các bên liên quan: … (e) WCT; và (f) WPPT”. Về cân bằng lợi ích giữa quyền tác giả, quyền liên quan, Điều 18.66 yêu cầu nỗ lực cân bằng lợi ích giữa chủ thể quyền và người sử dụng quyền bằng các biện pháp giới hạn và các ngoại lệ quyền. Điều 18.63 kéo dài thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan: Cả cuộc đời tác giả + 70 năm; hoặc 70 năm sau ngày công bố (nếu công bố trong vòng 25 năm); hoặc 70 năm từ ngày tạo ra tác phẩm/bản ghi âm/cuộc biểu diễn (nếu không công bố trong vòng 25 năm).
Thứ ba, Hiệp định EVFTA
Cần có cam kết cụ thể về nội dung và phạm vi các quyền được bảo hộ và các chủ thể được bảo hộ quyền liên quan tới khía cạnh quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó có mức yêu cầu cao hơn TRIPS và Luật Sở hữu trí tuệ:
- Trong vòng 03 năm kể từ ngày Hiệp định EVFTA có hiệu lực, Việt Nam phải tham gia 02 hiệp định WCT và WPPT, điều này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ trong 02 hiệp định này sau thời điểm gia nhập.
- Việt Nam cần bổ sung các quy định chi tiết hơn theo EVFTA về một số khía cạnh quyền tác giả và quyền liên quan (ví dụ quyền sao chép, quyền phân phối, quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất, định nghĩa bản sao, hình thức chuyển quyền sở hữu).
- Việt Nam cần quy định phạm vi rộng hơn về các hành vi xâm phạm các biện pháp kỹ thuật bảo vệ quyền tác giả (PTMs) và các biện pháp kỹ thuật bị xâm phạm so với quy định của pháp luật nội địa; quy định chi tiết hơn về định nghĩa và việc bảo vệ thông tin quản lý quyền theo EVFTA.
- Việt Nam có thể quy định về quyền của nghệ sỹ đối với việc bán lại tác phẩm, tuy nhiên, đây là quyền, không phải nghĩa vụ bắt buộc.
Như vậy, chúng ta phải tham gia hai văn kiện quốc tế nêu trên để bảo vệ quyền lợi của tác giả đối với các vấn đề liên quan tới “chương trình nghị sự kỹ thuật số” trong việc truyền tải, lưu trữ tác phẩm bằng phương tiện điện tử, mạng kỹ thuật số; lưu trữ và truyền tải các buổi biểu diễn và bản ghi âm trong các hệ thống kỹ thuật số.
2.2. Đánh giá khác biệt về quyền sở hữu công nghiệp
2.2.1. Về nhãn hiệu
(i) Hiệp định CPTPP
- Loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu:
Điều 18.18 Hiệp định CPTPP quy định: Không bên nào được quy định rằng dấu hiệu phải được nhìn thấy bằng mắt như một điều kiện để đăng ký, cũng không được từ chối việc đăng ký nhãn hiệu là một âm thanh đơn thuần. Ngoài ra, mỗi bên phải nỗ lực để cho phép đăng ký nhãn hiệu mùi hương. Một bên có thể đòi hỏi một mô tả ngắn gọn và chính xác hoặc đại diện đồ họa của nhãn hiệu, hoặc cả hai nếu có thể.
Ngoài các đối tượng truyền thống mà pháp luật Việt Nam đang bảo hộ (như chữ, ký hiệu, từ ngữ, hình ảnh), Hiệp định CPTPP còn mở rộng ra cả âm thanh và khuyến khích các nước bảo hộ cả mùi; đối với tất cả các đối tượng được bảo hộ thì không bắt buộc phải “nhìn thấy được”. Về việc phải bảo hộ nhãn hiệu thương mại dưới hình thức âm thanh, Việt Nam chỉ phải thực hiện nghĩa vụ này sau 03 năm kể từ ngày Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
Như vậy, điều ước quốc tế không ngăn cấm việc lấy âm thanh, mùi, vị làm nhãn hiệu. Cũng cần thấy rằng, trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã phê chuẩn TRIPS, nhưng cho đến nay, Việt Nam chưa ban hành các quy định về bảo hộ nhãn hiệu đối với âm thanh, mùi, vị là quá muộn. Do đó, thiết nghĩ nên bổ sung các quy định này vào hệ thống luật sở hữu trí tuệ.
- Đối với nhãn hiệu nổi tiếng:
Điểm 1 Điều 18.22 Hiệp định CPTPP quy định: “Không bên nào được áp đặt điều kiện để một nhãn hiệu được xác định là nổi tiếng là nó phải được đăng ký trong nước đó hay trong một nước nào khác, phải có trong một danh sách các nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc được công nhận trước là một nhãn hiệu nổi tiếng”. Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 75) hiện vẫn còn quy định một số tiêu chí dạng này và vì vậy sẽ phải điều chỉnh cho phù hợp.
- Về hệ thống quản lý điện tử nhãn hiệu:
Điều 18.24 Hiệp định CPTPP về hệ thống nhãn hiệu điện tử: “Mỗi Bên sẽ thiết lập: (a) một hệ thống điện tử phục vụ cho việc đăng ký và duy trì nhãn hiệu; và (b) hệ thống thông tin điện tử công khai, bao gồm một cơ sở dữ liệu trực tuyến các hồ sơ đăng ký nhãn hiệu và nhãn hiệu đã đăng ký”. Phải có hệ thống thông tin điện tử có thể truy cập bao gồm dữ liệu trực tuyến hồ sơ đơn đăng ký nhãn hiệu và các nhãn hiệu đã được đăng ký.
- Tên miền xung đột với nhãn hiệu:
Điều 18.28 Hiệp định CPTPP yêu cầu:
“1. Khi kết nối với hệ thống của mỗi bên để quản lý tên miền quốc gia cấp cao nhất (ccTLD) của nước đó: (a) một thủ tục thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp dựa vào hoặc mô phỏng theo các nguyên tắc được theo chính sách giải quyết tranh chấp tên miền, theo phê duyệt của Tổng công ty Internet cho tên miền và số (ICANN), hoặc: (i) được thiết kế để giải quyết tranh chấp nhanh chóng và với chi phí thấp; (ii) công bằng; (iii) không quá nặng nề, và (iv) không loại trừ sự can thiệp của tòa; và (b) một cơ sở dữ liệu trực tuyến công cộng đáng tin cậy và chính xác gồm thông tin liên quan đến người đăng ký tên miền; sẽ được thiết lập theo quy định pháp luật của mỗi nước và chính sách quản lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư (nếu có).
2. Khi kết nối với hệ thống của mỗi Bên để quản lý tên miền ccTLD, biện pháp khắc phục thích hợp sẽ được áp dụng, ít nhất là trong trường hợp khi người đăng ký hoặc nắm giữ một tên miền trùng hoặc gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu nhằm mục đích thu lợi bất chính”.
Luật Sở hữu trí tuệ cần thiết bổ sung quy định này cho phù hợp với điều ước quốc tế chúng ta đã tham gia.
(ii) Hiệp định EVFTA
Cam kết về nhãn hiệu trong EVFTA cơ bản tương đồng với Hiệp định CPTPP. Việt Nam cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ cho phù hợp với những yêu cầu của Hiệp định EVFTA: Về thủ tục đăng ký nhãn hiệu, Việt Nam phải quy định về việc nếu từ chối đăng ký thì phải thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do. Về hệ thống cơ sở dữ liệu về nhãn hiệu, Việt Nam phải bảo đảm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, cập nhật, dễ tra cứu về tất cả các nhãn hiệu đang được bảo hộ. Về nhãn hiệu nổi tiếng, Việt Nam cần làm rõ hơn các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng và quy trình công nhận nhãn hiệu nổi tiếng
2.2.2. Về kiểu dáng công nghiệp
(i) Hiệp định CPTPP
- Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp: Điều 18.55 Hiệp định CPTPP yêu cầu: “1. Mỗi bên phải bảo hộ đầy đủ và hiệu quả các kiểu dáng công nghiệp và thực hiện việc bảo hộ đối với những kiểu dáng công nghiệp sau: (a) được chứa đựng trong một phần của một sản phẩm; hoặc theo cách khác; (b) có một phần kiểu dáng riêng biệt so với toàn bộ sản phẩm. 2. Điều này áp dụng theo điều 25 và điều 26 của Hiệp định TRIPS”. Cam kết này cũng đặt ra cho Việt Nam phải sửa đổi, bổ sung quy định về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp.
- Hệ thống đăng ký kiểu dáng công nghiệp: Điều 18.56 Hiệp định CPTPP về hoàn thiện hệ thống kiểu dáng công nghiệp: “Các bên thừa nhận tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng và hiệu quả trong hệ thống đăng ký kiểu dáng công nghiệp của mình, cũng như tạo thuận lợi cho quá trình mua lại xuyên biên giới những quyền đó thông qua hệ thống đăng ký kiểu dáng công nghiệp của mình bao gồm việc xem xét phê chuẩn hoặc gia nhập Hiệp định Hague về Đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp tại Geneva ngày 02/7/1999”. Việt Nam cần xúc tiến tham gia Thỏa ước La Hay tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nộp đơn đăng ký quốc tế.
(ii) Hiệp định EVFTA
Cam kết về kiểu dáng công nghiệp trong EVFTA có một số điểm chú ý:
- Việt Nam phải gia nhập và bảo đảm thực thi các quy định của Thỏa ước Hague (La Hay) về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp.
- Việt Nam phải quy định rõ hơn về việc bảo hộ kiểu dáng tổng thể và kiểu dáng linh kiện thành phần (thông qua tiêu chí “nhìn thấy được”).
- Việt Nam cần quy định rõ hơn về việc kiểu dáng công nghiệp cũng có thể là đối tượng được bảo hộ theo quyền tác giả.
2.2.3. Về sáng chế
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam chưa có những quy định cụ thể về một số vấn đề được ghi nhận trong điều ước quốc tế.
(i) Hiệp định CPTPP
Những quy định trong Hiệp định CPTPP đặt Việt Nam trước yêu cầu phải hoàn thiện Luật Sở hữu trí tuệ. Theo Điều 18.50 và Điều 18.51 Hiệp định CPTTP có thể thấy:
- Về dữ liệu thử nghiệm dược phẩm: Bảo hộ độc quyền dữ liệu đăng ký thuốc: Đối tượng bảo hộ là các dữ liệu thử nghiệm và dữ liệu bí mật khác về tính an toàn hoặc tính hiệu quả của dược phẩm mới phải nộp khi đăng ký lưu hành dược phẩm, bao gồm cả hóa phẩm và sinh phẩm. Thời hạn độc quyền các dữ liệu này (kể từ ngày cấp phép lưu hành) là 05 năm cho thuốc có thành phần mới; 05 năm cho thuốc mới hoàn toàn và 03 năm cho dữ liệu bổ sung cho thuốc cũ không có thành phần mới (chỉ là chỉ định mới, đường dùng mới, cách dùng mới). Thời hạn độc quyền đối với sinh phẩm là 08 năm. Phải đền bù thời hạn bảo hộ bằng độc quyền sáng chế nếu chậm trễ trong thủ tục cấp đăng ký thuốc.
- Về dữ liệu thử nghiệm nông hóa phẩm: Đối tượng bảo hộ là dữ liệu thử nghiệm và dữ liệu bí mật khác về tính an toàn hoặc tính hiệu quả của nông hóa phẩm mới chứa thành phần hóa học mới phải nộp khi đăng ký lưu hành nông hóa phẩm. Thời hạn bảo hộ độc quyền nông hóa phẩm là 10 năm từ ngày cấp phép.
(ii) Hiệp định EVFTA
- Quyền áp dụng Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS và sức khỏe cộng đồng 2001 (Tuyên bố Doha) để tiếp cận những sáng chế về dược phẩm phục vụ cho lợi ích cộng đồng (đặc biệt là các ngoại lệ về quyền sử dụng các sáng chế dược phẩm).
- Hiệp định EVFTA yêu cầu Việt Nam phải có quy định cho phép “bù đắp” cho các trường hợp thời gian bảo hộ sáng chế bị rút ngắn do chậm trễ trong thủ tục cấp phép lưu hành (nhưng không ràng buộc về cách thức “bù đắp”)
Như vậy, đặt ra cho Luật Sở hữu trí tuệ những vấn đề sau:
Một là, vấn đề sáng chế đối với dược phẩm và các biện pháp chữa bệnh cho người: Việc bảo hộ sáng chế đối với dược phẩm và các biện pháp chữa bệnh cho người cần có quy định nêu rõ dược phẩm và các nhóm sản phẩm dịch vụ y tế là ngoại lệ và rằng các hình thức áp dụng linh hoạt Hiệp định TRIPS trong Tuyên bố Doha là mang lại những thuận lợi cho Việt Nam. Trong khuôn khổ WTO, bản thân các nước cũng thừa nhận rằng Hiệp định TRIPS là tiêu chuẩn quá cao nếu xét từ góc độ dược phẩm. Đây là lý do tại sao các nước đồng thuận trong việc đưa ra tuyên bố Doha về việc áp dụng linh hoạt TRIPS đối với các trường hợp liên quan đến quyền tiếp cận dược phẩm của công chúng. Và đây là căn cứ quan trọng để các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam áp dụng, điều này cũng đòi hỏi những tiêu chuẩn sở hữu trí tuệ linh hoạt và phù hợp trong vấn đề này trong cả WTO lẫn các đàm phán thương mại khác. Tuyên bố này đã nhận được sự đồng thuận của tất cả các thành viên WTO, trong đó có các nước tham gia đàm phán Hiệp định CPTPP.
Pháp luật và thực tiễn Việt Nam cũng đã và đang áp dụng những biện pháp linh hoạt (ngoại lệ so với TRIPS) theo “sự cho phép” trong Tuyên bố Doha này (đặc biệt trong các nội dung liên quan đến giấy phép bắt buộc).
Hai là, quyền tiếp cận thuốc - nhìn từ Hiệp định TRIPS: Khoản 3 Điều 18.50 Hiệp định CPTPP quy định các bên có thể có các biện pháp để bảo vệ sức khỏe cộng đồng phù hợp với Tuyên bố Doha. Dựa trên Tuyên bố Doha, đây là điểm thuận lợi cho chúng ta. Nhưng vẫn có thể vận dụng Hiệp định TRIPS về quyền tiếp cận thuốc, trong đó có:
- Điều 27 (khoản 2) Hiệp định TRIPS quy định: “Các thành viên có thể loại trừ không cấp patent cho những sáng chế cần phải bị cấm khai thác nhằm mục đích thương mại trong lãnh thổ của mình để bảo vệ trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội, kể cả để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người và động vật hoặc thực vật hoặc để tránh gây nguy hại nghiêm trọng cho môi trường, với điều kiện những ngoại lệ đó được quy định không chỉ vì lý do duy nhất là việc khai thác các sáng chế tương ứng bị pháp luật của nước đó ngăn cấm”.
- Điều 31 Hiệp định TRIPS quy định cho phép Chính phủ của một quốc gia được quyền cấp license cưỡng bức trong trường hợp cần thiết để bảo vệ sức khỏe công chúng: “Trường hợp luật của một thành viên quy định việc cấp phép sử dụng đối tượng patent dưới hình thức khác khi không được phép của người nắm giữ quyền…”.
Ba là, quyền tiếp cận thuốc - nhìn từ Tuyên bố Doha: Các quốc gia tham gia Hiệp định CPTPP đều đưa ra cách hiểu thống nhất về các biện pháp y tế vì sức khỏe cộng đồng, trong đó nhấn mạnh đến Tuyên bố Doha nêu rõ: “Chúng tôi thừa nhận các vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ cộng đồng đang ảnh hưởng xấu tới các nước đang phát triển và kém phát triển nhất, đặc biệt là những vấn đề gây nên bởi HIV/AIDS, bệnh lao, sốt rét và các bệnh dịch khác”.
Đồng thời Tuyên bố Doha cũng đã nêu Hiệp định TRIPS phải là một bộ phận của hành động trong khuôn khổ quốc gia và quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề này.
Như vậy, Tuyên bố Doha là một cơ sở pháp lý dùng để bảo vệ quyền tiếp cận thuốc của công chúng, nhất là công chúng thuộc các quốc gia đang phát triển và kém phát triển được xem như đã đặt lợi ích kinh tế của các công ty dược phẩm trên sức khỏe cộng đồng (một yếu tố của quyền con người).
2.2.4. Về chỉ dẫn địa lý
Việt Nam là một quốc gia có tỷ trọng nông nghiệp cao trong nền kinh tế nói chung, chúng ta thường tự hào mình có nhiều sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, nhưng có vẻ như thế giới không đánh giá cao về sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam. Trong các tài liệu do Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) phát hành chỉ thấy nhắc đến một số sản phẩm có danh tiếng như trà Darjeeling, phomat Parmigiano, rượu vang Bordeaux, thịt bò Kobe, khoai tây Idaho, cà phê cao nguyên xanh Jamaica (Jamaica Blue Mountain coffee), rượu Tequila Mexico…[2], WIPO không nhắc đến bất kỳ sản phẩm nông nghiệp nào của Việt Nam trong danh mục các nông sản nổi tiếng trên thế giới, qua đây cho thấy bất lợi của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, đấy là chưa nói đến hiện tượng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong sản phẩm trồng trọt và dư lượng kháng sinh trong sản phẩm chăn nuôi[3].
Về quan điểm bảo hộ hoặc không bảo hộ chỉ dẫn địa lý cũng không thống nhất trên phạm vi thế giới, trong số 167 nước có hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ thì có tới 111 nước (trong đó có EU) có các quy định riêng biệt về chỉ dẫn địa lý, trong khi 56 nước còn lại (trong đó có Hoa Kỳ) lại sử dụng các quy định về bảo hộ nhãn hiệu (trademark) để sử dụng thay cho việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý[4]. Trong số các quốc gia không bảo hộ chỉ dẫn địa lý, người ta thấy có các nước nông nghiệp như Angola, Bangladesh, Botswana, Cambodia, Congo, Ethiopia, Kenya, Lào, Madagascar, Philippines, Yemen, Zambia…[5]
Qua kết quả so sánh tương quan về tiềm lực kinh tế giữa các nước bảo hộ chỉ dẫn địa lý và các nước không bảo hộ chỉ dẫn địa lý[6] có thể thấy những bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, theo đó, GDP của các quốc gia không bảo hộ chỉ dẫn địa lý gấp khoảng 10 lần GDP của các quốc gia có bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
Điều 18.30 CPTPP về công nhận chỉ dẫn địa lý: “Các Bên thừa nhận rằng chỉ dẫn địa lý có thể được bảo hộ thông qua một nhãn hiệu hoặc hệ thống đặc thù hoặc các phương tiện pháp lý khác”. Hiệp định CPTPP quy định các nước được quyền lựa chọn cơ chế bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý, hoặc là theo cơ chế riêng chỉ áp dụng cho chỉ dẫn địa lý, hoặc là theo cơ chế chung với nhãn hiệu thương mại. Điều này có nghĩa là các nước như Việt Nam sẽ vẫn được tiếp tục sử dụng hệ thống bảo hộ chỉ dẫn địa lý của mình (độc lập với bảo hộ về nhãn hiệu thương mại).
Chỉ dẫn địa lý là đối tượng sở hữu trí tuệ mà EU đặc biệt quan tâm, do khối này có khá nhiều các sản phẩm được bảo hộ dưới dạng chỉ dẫn địa lý. Trong Hiệp định EVFTA, cam kết về chỉ dẫn địa lý cũng thể hiện rõ sự quan tâm này, với các cam kết khá đặc thù. Về đối tượng bảo hộ, các cam kết về chỉ dẫn địa lý trong EVFTA chỉ áp dụng đối với 04 nhóm sản phẩm: Rượu vang, rượu mạnh, nông sản, thực phẩm[7]. Trên thực tế thì 04 nhóm này cũng bao quát gần như phần lớn các sản phẩm có thể là đối tượng của chỉ dẫn địa lý.
Về cơ chế bảo hộ, tuy không đề cập trực tiếp nhưng Hiệp định EVFTA yêu cầu việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo cơ chế riêng, độc lập với nhãn hiệu thông qua cam kết về quy trình công nhận chỉ dẫn địa lý. Trên thực tế, hiện cả EU và Việt Nam đều bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo một cơ chế riêng, độc lập với các đối tượng sở hữu trí tuệ khác. Vì vậy, cam kết về vấn đề này thực chất là để ràng buộc Việt Nam trong các cam kết, đàm phán sau này liên quan tới chỉ dẫn địa lý với các đối tác khác.
Về mối quan hệ với nhãn hiệu, Hiệp định EVFTA ghi nhận quyền được bảo hộ của các nhãn hiệu dù có tên gọi giống với chỉ dẫn địa lý nhưng đã được đăng ký và bảo hộ hợp pháp trước thời điểm Hiệp định này có hiệu lực hoặc trước ngày đơn yêu cầu bảo hộ chỉ dẫn địa lý đó được nộp cho cơ quan có thẩm quyền.
Về các trường hợp được bảo hộ đương nhiên, Chương 12 Hiệp định EVFTA có 02 Phụ lục GI-I và GI-II trong đó liệt kê 171 chỉ dẫn địa lý của EU và 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam (gồm tên gọi, địa phương xuất xứ, nước xuất xứ) mà hai bên cam kết bảo hộ đương nhiên, không cần qua các thủ tục thẩm định, thông báo, khiếu nại… theo quy trình thông thường.
Theo cam kết tại Hiệp định EVFTA thì Danh mục các chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đương nhiên này có thể được rà soát lại bởi Nhóm công tác về sở hữu trí tuệ (trong đó có chỉ dẫn địa lý) của EVFTA. Hiệp định EVFTA thậm chí còn có các quy tắc bảo hộ riêng đối với các chỉ dẫn địa lý thuộc nhóm được liệt kê này (ví dụ chủ thể quyền phải được phép ngăn cản việc sử dụng các chỉ dẫn địa lý này cho các sản phẩm không xuất phát từ nước xuất xứ được liệt kê, ngăn cản việc sử dụng các thiết kế hoặc trình bày theo bất kỳ cách nào khiến người tiêu dùng nhầm lẫn về xuất xứ của sản phẩm vốn không có xuất xứ tại đó…)
Về cơ chế đăng ký và bảo hộ thông thường, theo Hiệp định EVFTA, Việt Nam và EU phải thiết lập cơ chế đăng ký và bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho ít nhất là 04 nhóm đối tượng thuộc diện điều chỉnh (rượu vang, rượu mạnh, nông sản, thực phẩm) bảo đảm các yêu cầu:
- Phải có một hệ thống đăng ký liệt kê rõ các chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ trên lãnh thổ của mình;
- Quy trình thẩm định hành chính để đưa hoặc duy trì một chỉ dẫn địa lý trên hệ thống đăng ký phải cho phép xác định được một sản phẩm có xuất xứ tại một khu vực địa lý nhất định và có chất lượng, uy tín, đặc điểm đặc thù chủ yếu nhờ vào việc sản phảm có xuất xứ từ khu vực địa lý đó;
- Phải có quy trình cho phép các tổ chức, cá nhân có lợi ích liên quan được lên tiếng phản đối và được lắng nghe;
- Phải có quy trình cho phép điều chỉnh, hoặc đưa ra khỏi hệ thống đăng ký sau khi cân nhắc các ý kiến phản đối của các bên có lợi ích cũng như ý kiến phản biện của chủ thể quyền.
Về việc thực thi, Hiệp định EVFTA yêu cầu Việt Nam và EU phải có cơ chế pháp lý cho phép ngăn chặn việc sản xuất, đóng gói, mua bán, quảng cáo sai, lừa đảo hoặc gây hiểu nhầm về nguồn gốc của thực phẩm, đồng thời cũng nhấn mạnh các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ phải tuân thủ các yêu cầu về chất lượng liên quan theo pháp luật nước sở tại.
Tóm lại, để thực hiện có hiệu quả hơn nữa tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cấp thiết hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nội luật hóa theo lộ trình phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc tham gia và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới[8].
[6] Tổng hợp từ công bố của IMF (IMF, World Economic Outlook, April 2014).