1. Dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Theo định nghĩa của Từ điển Luật học do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp biên soạn (nay là Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý) thì cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm thân thể, gây hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích cụ thể, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. Nhìn chung, khi nói đến tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nghĩa là đề cập đến một nhóm tội danh được quy định từ Điều 134 đến Điều 137 Chương XIV Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015), bao gồm: (i) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134); (ii) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); (iii) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136); (iv) Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137). Bài viết này tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về điều tra vụ án hình sự tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Hành vi cố ý gây thương tích được hiểu là: Cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bằng cách sử dụng bạo lực gây ra thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe của người khác, một cách trái quy định của pháp luật và đến mức đáng phải xử lý hình sự. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, các dấu hiệu của tội cố ý gây thương tích bao gồm:
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm: Ở góc độ tổng thể, khách thể mà tội cố ý gây thương tích xâm phạm đó chính là quyền được Nhà nước bảo hộ về sức khỏe và quyền bất khả xâm phạm thân thể của con người. Ở góc độ cụ thể, hành vi cố ý gây thương tích trực tiếp tác động vào chính là sức khỏe và thân thể của công dân, điều này đã được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu một người với ý thức chủ quan hoặc không ý thức mà tự ý gây ra thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho chính mình thì không cấu thành tội phạm này.
Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm trước hết là hành vi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động vào người khác, khiến người đó bị thương hoặc tổn hại về sức khỏe. Đối với dạng hành vi trực tiếp có thể xảy ra như: Đánh, đấm, đá, đâm, chém… Đối với dạng hành vi gián tiếp, đó có thể là hành vi ép người khác tự làm hại bản thân mình, thông qua các thủ đoạn ngoài bạo lực như: Tự cắt, chặt tay, tự chọc mắt, uống thuốc phá thai…
Bên cạnh đó, tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội phạm có cấu thành vật chất nên phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi gây ra bởi hành vi, đó chính là tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại đối với sức khỏe mà gây nên bởi hành vi trái pháp luật. Dựa trên nội dung những quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong những trường hợp quy định tại các điểm từ a đến o khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích là bản kết luận giám định pháp y và bản quy định tiêu chuẩn thương tật ban hành kèm theo Thông tư số 22/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, pháp y tâm thần.
Thứ ba, mặt chủ quan của tội phạm: Dựa trên phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, lỗi cố ý là yếu tố cấu thành bắt buộc đối với tội phạm này. Theo đó, hành vi được thực hiện với hai dạng cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, đó là việc người phạm tội nhận thức được hành vi gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả do hành vi ấy gây ra, nhưng vẫn mong muốn thực hiện đến cùng hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Cần lưu ý rằng, trong mặt chủ quan của tội phạm cố ý gây thương tích thì động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc chứng minh động cơ, mục đích của người phạm tội lại có ý nghĩa quyết định đối với việc định tội và định khung.
Thứ tư, mặt chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm cố ý gây thương tích là người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Đối chiếu với quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phạm tội thuộc khoản 1, khoản 2 Điều 134 tuy là trường hợp ít nghiêm trọng và nghiêm trọng nhưng người phạm tội đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Quy định về điều tra vụ án hình sự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015
2.1. Hoạt động điều tra vụ án hình sự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015
Điều tra vụ án hình sự là quá trình thu thập và xác minh các thông tin, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án hình sự nhằm tìm ra sự thật của vụ án. Phân tích từ góc độ khoa học pháp lý, điều tra là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó, chủ thể của hoạt động này được sử dụng các biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) (gọi tắt là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)quy định để thu thập chứng cứ nhằm chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án, làm cơ sở cho hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời, thông qua hoạt động điều tra, giúp xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm với các cơ quan chức năng và tổ chức hữu quan. Quá trình này bao gồm nhiều hoạt động nghiệp vụ cụ thể, như:
Thứ nhất, điều tra tại hiện trường: Hoạt động này thường diễn ra ở giai đoạn điều tra ban đầu đối với vụ án, là hoạt động xác lập căn cứ khởi tố vụ án và khởi tố bị can, xác lập những căn cứ và điều kiện cần thiết cho những cuộc điều tra tiếp theo.
Thứ hai, các hoạt động điều tra sau khi đã khởi tố vụ án, tức giai đoạn điều tra được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bao gồm: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; đối chất; nhận dạng; nhận biết giọng nói; khám xét người; khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện; khám nghiệm tử thi; khám nghiệm hiện trường; xem xét các dấu vết thân thể; thực nghiệm điều tra; định giá tài sản và các biện pháp điều tra đặc biệt khác.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về điều tra trong vụ án cố ý gây thương tích như sau: “Điều tra trong vụ án cố ý gây thương tích là những hoạt động tố tụng do các cá nhân và cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng những biện pháp mà pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm xác định sự thật của vụ án cố ý gây thương tích một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”. Mục đích của điều tra vụ án cố ý gây thương tích là thu thập, xác minh các thông tin, tài liệu, chứng cứ trong vụ án cố ý gây thương tích, qua đó, chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng như xác định đúng tính chất, mức độ của thiệt hại mà tội phạm gây ra. Kết quả của những hoạt động này là căn cứ để Viện kiểm sát thực hiện việc truy tố tội phạm ra trước Tòa án nhằm xét xử tội phạm đúng tội, đúng người, đúng pháp luật.
2.2. Các bước trong điều tra vụ án hình sự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015
Thứ nhất, kết luận giám định pháp y về thương tích (sau đây gọi tắt là kết luận giám định): Kết luận giám định là nguồn chứng cứ bắt buộc trong các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác. Điều này xuất phát từ những lý do sau: Đầu tiên, giúp xác định mức độ thiệt hại, hậu quả của hành vi. Từ góc độ phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, có thể thấy rằng, mức độ thiệt hại về sức khỏe là yếu tố quyết định tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Mà kết luận giám định chính là căn cứ để xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể một cách chính xác, từ đó giúp đánh giá được mức độ thiệt hại của hành vi gây ra. Tiếp theo, làm cơ sở pháp lý để xác định tội danh. Nếu không có kết luận giám định, cơ quan điều tra không thể đánh giá chính xác các yếu tố cấu thành của tội phạm, từ đó khó đưa ra nhận định đúng đắn hành vi phạm tội thuộc vào tội danh nào được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, kết luận giám định được thực hiện bởi các chuyên gia có chuyên môn cao và phương tiện kỹ thuật cần thiết, bảo đảm tính khách quan, chính xác và khoa học trong việc đánh giá mức độ thương tật. Điều này giúp loại bỏ các yếu tố chủ quan và sai lệch phát sinh trong quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ và xác định sự thật vụ án. Quan trọng hơn, đây là yêu cầu bắt buộc được quy định bởi pháp luật. Theo điểm 4 Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan có thẩm quyền, nếu cần thiết, có nghĩa vụ yêu cầu giám định để xác định tính chất thương tích, mức độ thiệt hại về sức khỏe, khả năng lao động. Khi chứng minh vụ án cố ý gây thương tích, xâm phạm sức khỏe của người khác, cơ quan có thẩm quyền không thể xác định tính chất, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra nếu không căn cứ vào kết luận giám định được chứng minh trong bất kỳ vụ án hình sự nào. Cuối cùng, kết luận giám định là cơ sở để cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đưa ra các quyết định tố tụng như khởi tố, truy tố và xét xử. Nó giúp bảo đảm các quyết định được đưa ra dựa trên chứng cứ khoa học, chính xác và đáng tin cậy. Kết luận giám định còn là cơ sở để xác định các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, từ đó, bảo đảm công bằng trong xét xử loại tội phạm này.
Thứ hai, chủ thể của hoạt động chứng minh trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Chủ thể của hoạt động chứng minh ở vào mỗi giai đoạn tố tụng là không giống nhau. Trong giai đoạn điều tra, các chủ thể chứng minh là những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, điều này được quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Chủ thể của điều tra là những người có kiến thức về pháp luật và nghiệp vụ điều tra, biết vận dụng linh hoạt các biện pháp khoa học kỹ thuật, kết hợp giữa lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để phát hiện và điều tra được tội phạm. Xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ giữa điều tra và chứng minh, có thể thấy rằng, chủ thể của hoạt động điều tra vụ án hình sự nói chung và vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng bao gồm các cơ quan điều tra như công an, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm ngư, kiểm lâm, cảnh sát biển và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật, như cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân hoặc các cơ quan bảo vệ pháp luật khác; còn chủ thể của hoạt động chứng minh trong vụ án vụ án hình sự nói chung và vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng chủ yếu bao gồm cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án vì các cơ quan này có trách nhiệm thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ để xác định sự thật của vụ án.
Thứ ba, thời hạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Để bảo đảm cho hoạt động điều tra được nhanh chóng, kịp thời, vì lợi ích của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp những người tham gia trong quá trình tố tụng, Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ về thời hạn điều tra. Thời hạn điều tra là khoảng thời gian tối đa cho phép hoạt động điều tra được tiến hành, được tính từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đến ngày kế thúc điều tra, khi cơ quan điều tra chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng với kết luận điều tra đề nghị truy tố vị can hoặc quyết định đình chỉ điều tra. Ở giai đoạn này, cơ quan có trách nhiệm điều tra vụ án phải tiến hành các hoạt động thu thập, xem xét, đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để ban hành văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho giai đoạn tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, phụ thuộc vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của vụ án, thời hạn điều tra cơ bản là từ 02 tháng đến 04 tháng, trong trường hợp phức tạp, thời hạn điều tra có thể được gia hạn theo các quy định cụ thể của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Việc quy định về thời hạn điều tra nhằm tạo điều kiện cho cơ quan điều tra khẩn trương và chủ động trong hoạt động điều tra vụ án. Tùy theo diễn biến cụ thể của từng vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà áp dụng thời hạn điều tra tương ứng nhằm không để lọt tội phạm, đồng thời không vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân.
Thứ tư, các kỹ thuật điều tra trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cơ quan điều tra hình sự có quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để chứng minh tội phạm. Đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, muốn chứng minh vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ nhất, cơ quan điều tra có thể áp dụng các biện pháp từ điều tra cơ bản cho đến các thủ thuật, chiến thuật phức tạp trong khoa học điều tra hình sự nhằm chứng minh tội phạm cố ý gây thương tích vì mục tiêu của quá trình điều tra là xác định sự thật khách quan của vụ án, thu thập và đánh giá chứng cứ một cách toàn diện và chính xác, tuy nhiên, các biện pháp này phải tuân thủ quy trình và bảo đảm tính hợp pháp, khách quan và công bằng trong quá trình điều tra, không được xâm phạm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ năm, nội dung chứng minh trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự thực chất là quá trình tìm hiểu sự thật vụ án của chủ thể có trách nhiệm chứng minh. Vì vậy, khi điều tra một vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, mục đích của hoạt động chứng minh là xác lập các tình tiết khách quan, toàn diện và đầy đủ của vụ án, xác định xem tội phạm thực hiện đã hoàn thành hay chưa, diễn biến của hành vi cụ thể ra sao, có đủ căn cứ để buộc tội bị can không, hậu quả của tội phạm nghiêm trọng đến mức độ nào… từ đó giúp đưa ra các quyết định tố tụng hoặc kết luận một cách đúng đắn. Bên cạnh đó, nguồn chứng cứ trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hết sức đa dạng, có thể bao gồm lời khai của bị can, nhân chứng, người bị hại; các vật chứng, tài liệu; kết luận giám định pháp y về thương tật; các kết quả khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra. Đặc biệt, kết luận giám định pháp y là chứng cứ bắt buộc để xác định mức độ thương tật của nạn nhân, từ đó xác định tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Mục đích của hoạt động chứng minh nói chung và đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng chính là xoay quanh những nội dung đó, giúp góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
3. Kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về điều tra vụ án hình sự đối với tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Một là, hoàn thiện các quy định của pháp luật và tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật có liên quan: Pháp luật hình sự hiện hành quy định một số tội danh có đặc điểm về hành vi khách quan khá tương đồng, chưa có tính phân định rõ ranh giới giữa xử lý hành chính và xử lý hình sự, từ đó dẫn đến vướng mắc trong hoạt động đánh giá chứng cứ để chứng minh tội phạm. Vì vậy, liên ngành trung ương cần ban hành văn bản hướng dẫn công tác xây dựng các quy định cụ thể về trách nhiệm cung cấp thông tin của các tổ chức có liên quan trong quá trình giải quyết nguồn tin và vụ án hình sự. Trong đó, tập trung quy định về thời hạn cung cấp thông tin, chế tài xử lý trong trường hợp chậm trả lời hoặc không trả lời các yêu cầu, đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng.
Hai là, kiện toàn đội ngũ và nâng cao năng lực nghiệp vụ của cán bộ chuyên môn, bảo đảm về mặt số lượng, chất lượng đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên phục vụ cho công tác điều tra: Tiếp tục đổi mới nhằm chuẩn hóa quy trình tuyển dụng, bố trí công tác, bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ, chặt chẽ; thường xuyên rà soát, kiểm tra, đánh giá trình độ chuyên môn của đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên định kỳ và đột xuất, bằng nhiều hình thức khác nhau, bảo đảm thiết thức, hiệu quả.
Ba là, tăng cường quan hệ phối hợp trong công tác điều tra, truy tố tội phạm giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, giữa lực lượng điều tra viên và kiểm sát viên trong việc thi hành pháp luật về điều tra vụ án hình sự đối với tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Thường xuyên quán triệt và nghiêm túc thực hiện các quy định của Thông tư liên tịch số02/2017/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 29/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Thông tư số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQPngày 19/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trong quá trình điều tra, truy tố, Công văn số 593/VKSTC-QSTW ngày 22/02/2021 của Viện kiểm sát nhân tối cao về việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với Viện kiểm sát quân sự./.
Lê Bình Phương
Viện Kiểm sát quân sự Trung ương
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).
3. Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 29/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
4. Thông tư 04/2018/TTLT- VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong thực hiện một số quy định của Bộ tố Tụng luật hình sự trong quá trình điều tra, truy tố.
5. Công văn số 593/VKSTC-QSTW ngày 22/02/2021 của Viện kiểm sát nhân tối cao về việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với Viện kiểm sát quân sự.
6. Thông tư số 22/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, pháp y tâm thần.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 410), tháng 8/2024)