Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp nhân thương mại phải gánh chịu trước nhà nước do thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà những hành vi này được quy định là tội phạm trong pháp luật hình sự.
Bài viết đề cập đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế, từ đó có những đề xuất đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm phòng ngừa pháp nhân tương mại phạm tội.
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân không phải là vấn đề mới mà đây là vấn đề đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự quốc gia cũng như các văn bản pháp luật quốc tế. Ở nước ta, theo quan niệm truyền thống của khoa học luật hình sự, tội phạm là sự kết hợp giữa hành vi nguy hiểm của con người và thái độ lỗi của người đó, nên chỉ coi chủ thể của tội phạm là các cá nhân và truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) chỉ đặt vấn đề đối với cá nhân phạm tội. Đến Bộ luật Hình sự năm 2015, TNHS của pháp nhân quy định tại Chương XI gồm 16 điều (từ Điều 74 đến Điều 89), một số điều khoản cụ thể khác (Điều 2, Điều 3, Điều 8, Điều 33, Điều 46) và các điều luật nằm trong phần quy định về tội phạm cụ thể.
TNHS của pháp nhân thương mại (PNTM) là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà PNTM phải gánh chịu trước Nhà nước do thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà những hành vi này được quy định là tội phạm trong pháp luật hình sự.
1. Đặc điểm về TNHS của PNTM được hình thành trên cơ sở các đặc điểm TNHS nói chung, tuy nhiên, cũng có một số đặc thù riêng đối với chủ thể này:
Một là, phạm vi về không gian. Việc truy cứu TNHS đối với PNTM phạm tội không chỉ áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam mà còn có thể áp dụng đối với hành vi của PNTM nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam khi có hành vi xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của Việt Nam hoặc được quy định là tội phạm trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Hai là, điều kiện chịu TNHS của PNTM. Trên cơ sở tham khảo pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật một số nước, để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với điều kiện của Việt Nam, Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015) quy định bốn căn cứ để PNTM phải chịu TNHS, trong đó ba căn cứ đầu có tính đặc thù chỉ áp dụng xác định TNHS của PNTM, còn căn cứ cuối áp dụng chung cho cả cá nhân và PNTM. Theo đó, chỉ truy cứu TNHS đối với PNTM khi hội đủ bốn căn cứ sau: (i) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM, (ii) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM, (iii) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM, (iv) Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Ba là, phạm vi chịu TNHS của PNTM. Qua tham khảo kinh nghiệm nước ngoài về loại tội mà pháp nhân phải chịu TNHS, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã giới hạn 33 loại tội PNTM phải chịu TNHS tại Điều 76, thuộc ba nhóm tội phạm là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về môi trường và các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Các tội phạm này tương ứng với các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của PNTM và các lĩnh vực phạm tội phổ biến do PNTM thực hiện trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Về kỹ thuật lập pháp, các điều luật quy định 33 tội danh do PNTM thực hiện đều có một khung riêng quy định loại và mức hình phạt áp dụng đối với PNTM. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định “việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”. TNHS của PNTM không thay thế, làm loại bỏ hoặc ảnh hưởng đến việc truy cứu TNHS đối với cá nhân. Không được coi việc truy cứu TNHS đối với PNTM về hành vi phạm tội là để thay thế cho việc truy cứu TNHS đối với cá nhân về hành vi phạm tội đó mà cá nhân phải đồng chịu trách nhiệm với PNTM về hành vi phạm tội theo nguyên tắc: (i) Người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội luôn phải chịu TNHS về cùng tội danh với PNTM trừ trường hợp người đó thuộc diện không phải chịu TNHS hoặc được miễn TNHS theo quy định của Bộ luật Hình sự. (ii) Đối với người đứng đầu PNTM thì tùy từng trường hợp cụ thể để xử lý. Nếu những người này đều biết và thống nhất chỉ đạo, chấp thuận cho thực hiện thì họ cùng chịu trách nhiệm chung về tội danh với PNTM và người trực tiếp thực hiện tội phạm. Nếu có căn cứ cho rằng, trong số họ có người không biết hoặc phản đối việc thực hiện hành vi này thì họ không phải chịu trách nhiệm chung tội danh với pháp nhân.
Bốn là, hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với PNTM phạm tội: So với cá nhân, hệ thống các hình phạt đối với PNTM phạm tội có sự khác biệt, bao gồm 03 hình phạt chính: Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn và 03 hình phạt bổ sung: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Do chủ thể phạm tội là các PNTM, với bản chất là các tổ chức kinh tế độc lập, hoạt động vì mục đích lợi nhuận và không sử dụng ngân sách nhà nước, cho nên hình phạt mang tính kinh tế được coi là phù hợp, hiệu quả và đủ sức răn đe để truy cứu TNHS đối với pháp nhân. Đối với hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn chỉ áp dụng trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và không còn cách nào khác.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 82 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định có 04 biện pháp tư pháp được áp dụng đối với PNTM phạm tội: (i) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; (ii) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; (iii) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; (iv) Buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra. Căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể, Tòa án có thể quyết định buộc PNTM phạm tội phải thực hiện một hoặc một số biện pháp tư pháp đó.
Căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể, Tòa án có thể quyết định buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải thực hiện một hoặc một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả của tội phạm: Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật; hàng hóa nhập khẩu, quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm… Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của PNTM và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS áp dụng đối với PNTM. So sánh với căn cứ quyết định hình phạt cá nhân, căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM có điểm khác là “việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại”. Việc chấp hành pháp luật được đánh giá theo nghĩa rộng, có thể là chấp hành nghĩa vụ đóng thuế; về an toàn, kỷ luật lao động, thậm chí cả trách nhiệm xã hội của pháp nhân.
Nhằm khuyến khích PNTM tích cực sửa chữa, khắc phục hậu quả, bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, giảm tối đa các tác động tiêu cực có thể mang lại từ việc áp dụng hình phạt, PNTM phạm tội có thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Đồng thời, với tinh thần tạo điều kiện thuận lợi cho PNTM bị kết án sớm trở lại hoạt động bình thường sau khi đã chấp hành án xong, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng quy định PNTM bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu trong thời hạn 02 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà PNTM không thực hiện hành vi phạm tội mới.
Bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống tội phạm nói chung là yêu cầu đặc biệt quan trọng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Cơ sở pháp lý hoàn thiện và đầy đủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm nói chung và các tội phạm do PNTM phạm tội nói riêng. Ngược lại, cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, đồng bộ sẽ có những tác động, cản trở nhất định đến hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền cũng như phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tội phạm.
2. Ở Việt Nam, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định TNHS đối với PNTM, do đó, sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định đòi hỏi phải có sự hoàn thiện pháp luật một cách kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm do PNTM thực hiện trong thời gian tới.
Một là, hoàn thiện khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 để bảo đảm tính lôgíc và khoa học hơn đối với vấn đề TNHS của PNTM. Theo đó, nội dung của điều luật không có thay đổi nhiều về nội dung so với Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), mà chỉ thêm vào thuật ngữ “hoặc PNTM”. Điều này là không phù hợp bởi PNTM chỉ phải chịu TNHS đối với một số loại tội cụ thể trong lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế và môi trường, chứ không phải chịu TNHS về toàn bộ tội phạm như cá nhân. Mặt khác, khái niệm tội phạm cũng cần được cấu trúc một cách ngắn gọn, song vẫn bảo đảm tính chính xác và đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của nó để phân biệt với các văn bản pháp luật khác. Điều này có nghĩa là, khái niệm tội phạm chỉ cần phản ánh được hai dấu hiệu cơ bản về nội dung và hình thức phản ánh bản chất xã hội và pháp lý của tội phạm, cụ thể như sau: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự”. Còn các dấu hiệu khác thể hiện điều kiện của TNHS, như: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự, lỗi; hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM, hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM, hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM (điều kiện TNHS của PNTM) thì được quy định riêng tại các điều luật cụ thể khác của Bộ luật Hình sự.
Hai là, cần ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật hình sự để truy cứu TNHS đối với PNTM. Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì: “1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này”. Như vậy, về cơ bản quy định về điều kiện chịu TNHS của PNTM đã tương đối chặt chẽ và chính xác. Song điều kiện tại điểm c Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 nảy sinh bất cập, có thể gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng, cụ thể: PNTM là một thực thể pháp lý. Mọi hoạt động của PNTM đều thông qua người đại diện. Tuy nhiên, trong trường hợp PNTM là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì người thành lập PNTM cũng chính là PNTM mà không hoạt động thông qua người đại diện do đó không thể tự mình chỉ đạo, điều hành chính mình được. Điều này, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành hướng dẫn chi tiết, cụ thể đối với quy định trên bảo đảm tính khả thi của các quy định của pháp luật trong thực tế.
Ba là, những quy định về hình phạt đối với PNTM cũng cần sửa đổi, bổ sung cho bảo đảm tính phù hợp và khoa học. Về cấu trúc, cần nghiên cứu chuyển quy định các hình phạt đối với PNTM tại Điều 33 sang Chương XI quy định về TNHS đối với PNTM, bởi lẽ, Chương này được thiết kế riêng để quy định về TNHS đối với PNTM. Hơn nữa, quy định như vậy sẽ bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của Bộ luật Hình sự năm 2015, tương tự như quy định về các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi tại Điều 98 trong Chương TNHS đối với người dưới 18 tuổi. Đặc biệt, cần nghiên cứu, xem xét có nên hủy bỏ hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33, Điều 78 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bởi lẽ vì, trong chế tài quy định tại các điều luật về tội phạm mà PNTM phải chịu TNHS không có hình phạt này. Hơn nữa, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng đã quy định hình phạt bổ sung: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định để áp dụng đối với PNTM phạm tội.
Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 liên quan đến TNHS của PNTM đòi hỏi cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm tính đồng bộ. Cụ thể là:
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan đến bảo đảm trật tự quản lý kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chính trên các lĩnh vực, như: Buôn lậu, sản xuất hàng giả, thuế, chứng khoản, bảo hiểm xã hội; bảo vệ rừng, tài nguyên nước và khoáng sản, phóng xạ, xử lý rác thải, chất thải… Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, có vai trò là chốt chặn, lá chắn nhưng đồng thời cũng là cơ sở để truy cứu TNHS. Nếu hoạt động xử lý vi phạm hành chính được quy định rõ ràng, đầy đủ và thực hiện một cách có hiệu quả thì tình hình vi phạm pháp luật sẽ được hạn chế, hậu quả tác động đến trật tự quản lý kinh tế và môi trường sẽ giảm đi rất nhiều và qua đó góp phần răn đe, phòng ngừa PNTM phạm tội.
- Hoàn thiện pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về quản lý kinh tế và môi trường theo hướng tăng thẩm quyền, hoạt động độc lập và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật. Đồng thời, bổ sung các quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của các PNTM đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về trật tự quản lý kinh tế và môi trường; quy định bắt buộc các PNTM phải mua bảo hiểm trách nhiệm cho thành viên của PNTM; phân định cụ thể trách nhiệm cá nhân, tập thể và PNTM, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu nếu xảy ra vi phạm pháp luật về trật tự quản lý kinh tế và môi trường. Các quy định này sẽ là cơ sở để bảo đảm khi xử lý bằng biện pháp tạm đình chỉ hoạt động, buộc di dời hoặc cấm hoạt động, vì khi áp dụng các biện pháp nêu trên có thể làm ảnh hưởng trực tiếp tới quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân có liên quan.
ThS. Hoàng Thịnh
Học viện Chính trị Công an nhân dân