1. Mục đích chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Như trên đã đề cập, hợp đồng bảo hiểm có thời gian đóng bảo hiểm rất dài. Do đó, trong quá trình thực hiện hợp đồng, có những thay đổi làm cho người mua bảo hiểm không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng nên phải chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho ngưới khác. Một số trường hợp phải chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ cụ thể là:
Thứ nhất, chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm khi người mua không còn khả năng tiếp tục đóng phí bảo hiểm. Do khả năng dự báo về năng lực tài chính kém hoặc sự giảm sút đột ngột nguồn thu nhập làm cho người mua bảo hiểm không còn khả năng tài chính để tiếp tục đóng phí. Trong trường hợp này, người mua bảo hiểm sẽ chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho người khác có khả năng tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
Thứ hai, chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm khi người mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm. Căn cứ khoản 1 Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt hiệu lực khi người mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm. Do đó, để hợp đồng tiếp tục có hiệu lực, người mua bảo hiểm phải chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm có người có quyền lợi có thể được bảo hiểm tiếp theo. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho người khác là điều kiện đề hợp đồng tiếp tục có hiệu lực.
Thứ ba, chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm khi người mua bảo hiểm không còn tồn tại hoặc không còn năng lực hành vi để tiếp tục thực hiện hợp đồng. Theo đó, khi người mua bào hiểm là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì họ không thể thực hiện trách nhiệm đóng phí bảo hiểm và các nghĩa vụ khác phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm. Do đó, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho người có khả năng tiếp tục thực hiện hợp đồng là tất yếu để đảm bảo hợp đồng đồng bảo hiểm tiếp tục được thực hiện.
Thứ tư, chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhằm mục tiêu thu hồi khoản vốn đã đầu tư vào sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của người mua bảo hiểm. Do thời gian đóng phí bảo hiểm dài, người mua bảo hiểm không muốn tiếp tục đầu tư và muốn thu hồi khoản phí đã đóng. Nếu người mua bảo hiểm tiếp tục đóng bảo hiểm thì khả năng không nhận được giá trị hoàn lại (nếu thời gian đóng bảo hiểm dưới 02 năm) hoặc nhận được giá trị hoàn lại thấp hơn khoản phí đã đóng. Nhằm bảo vệ quyền lợi của mình, người mua chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm này cho người nhận chuyển nhượng đề thu hồi khoản phí đã đóng và một khoản lãi (nếu có).
Như vậy, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nhưng đều có mục đích chung là đảm bảo cho hợp đồng tiếp tục có hiệu lực. Đây là mục đích chính đáng của người mua bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình cũng như của người thụ hưởng hoặc/và người được bảo hiểm. Ngược lại, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm hoàn toàn không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, pháp luật kinh doanh bảo hiểm cần tạo điều kiện tốt nhất cho việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm diễn ra nhanh chóng, thuận lợi trên thực tế.
2. Một số bất cập phát sinh liên quan đến chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm
Dưới góc độ luật thực định, điểm đ khoản 1 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm đã ghi nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là quyền của bên mua bảo hiểm. Đồng thời, Điều 26 Luật Kinh doanh bảo hiểm cũng quy định về điều kiện chuyển nhượng và hiệu lực pháp lý của việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, đó là quy định áp dụng chung cho tất cả các hợp đồng bảo hiểm, mà chưa có quy định về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm riêng cho hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong khi đó, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có những đặc thù so với các sản phẩm bảo hiểm khác, vì vậy thực tế áp dụng các quy định của luật thực định về vấn đề này còn gặp khó khăn.
Thứ nhất, về quyền chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Mặc dù, điểm đ khoản 1 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm ghi nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là quyền của bên mua bảo hiểm nhưng khoản 1 Điều 26 Luật Kinh doanh bảo hiểm lại quy định bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Căn cứ quy định này, có thể hiểu việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm không phải là quyền dân sự đương nhiên của người mua bảo hiểm mà chỉ là quyền “có thể” phát sinh nếu nội dung hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thỏa thuận hoặc quy tắc bảo hiểm có quy định. Theo đó, nếu các bên không có thỏa thuận và quy tắc sản phẩm bảo hiểm không quy định về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm thì người mua bảo hiểm không có quyền chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Quy định này có thể phù hợp trong bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Bởi vì, trong các loại bảo hiểm này người mua bảo hiểm đồng thời là được bảo hiểm và người thụ hưởng nên việc chuyển nhượng ít khi được thực hiện. Trong khi đó, trong bảo hiểm nhân thọ, người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng có thể là khác nhau nên việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm diễn ra mang tính phổ biến hơn. Tác giả cho rằng, cần phải ghi nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là quyền của người mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhằm bảo đảm sự tự do trong quyết định chuyển nhượng hay không chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Thực tế, có rất nhiều sản phảm bảo hiểm, trong bộ quy tắc bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm không có thỏa thuận về quyền chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm[1] thì bên mua không thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, nhất là khi bên mua mất khả năng thanh toán phí bảo hiểm, chết, hoặc mất năng lực hành vi. Khi đó, hợp đồng bảo hiểm sẽ tự động chấm dứt theo điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Điều này, không những ảnh hưởng đến lợi ích của người được bảo hiểm (không còn được bảo hiểm), người thụ hưởng (không được chi trả bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra) mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp bảo hiểm (do không thu được phí bảo hiểm).
Thứ hai, về thủ tục chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Căn cứ theo khoản 2 điều 26 Luật Kinh doanh bảo hiểm thì việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế. Theo đó, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ được coi là hợp lệ khi (i) người mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản và (ii) doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận. Quy định này không xác định rõ việc trả lời văn bản chấp thuận là quyền hay nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm. Căn cứ theo luật thực định thì có thể hiểu việc trả lời chấp thuận là quyền của doanh nghiệp bảo hiểm. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền từ chối và thủ tục chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm không có giá trị pháp lý.
Đồng thời, luật thực định cũng không xác định trong thời hạn bao lâu thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả lời văn bản chấp thuận. Khảo sát các quy tắc bảo hiểm của một số doanh nghiệp bảo hiểm, tác giả nhân thấy không có quy định về thời hạn doanh nghiệp bảo hiểm phải trả lời chấp thuận việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm[2]. Như vậy, nếu doanh nghiệp bảo hiểm cố tình trì hoãn việc trả lời chấp thuận thì người mua bảo hiểm không có căn cứ để chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho người khác.
Một vấn đề pháp lý khác liên quan đến thủ tục chuyển nhượng là nội dung của thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng. Bởi vì, chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là một giao dịch được xác lập giữa người mua bảo hiểm với người nhận chuyển nhượng, nó được thể hiện bằng một hợp đồng chuyển nhượng. Tuy nhiên, khi thông báo về việc chuyển nhượng là một hành vi pháp lý đơn phương của người mua bảo hiểm gửi đến doanh nghiệp bảo hiểm là không đúng bản chất. Tác giả cho rằng, cả người mua bảo hiểm và người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm đều phải cùng gửi thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng kèm với hợp đồng chuyển nhượng. Thực tiễn, nếu người mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng nhưng chưa được sự đồng ý của người nhận chuyển nhượng thì có là doanh nghiệp bảo hiểm không có căn cứ ràng buộc được nghĩa vụ của người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
Thứ ba, về thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người nhận chuyển nhượng đối với hợp đồng bảo hiểm chưa được quy định cụ thể. Khoản 2 Điều 26 Luật Kinh doanh bảo hiểm chỉ xác định “việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực…” được hiểu là khi đáp ứng được điều kiện “đã thông báo” và được “chấp thuận” thì việc chuyển nhượng đã được doanh nghiệp bảo hiểm thừa nhận. Tuy nhiên, không thể đồng nhất thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm đối với thời điểm có hiệu lực của việc chuyển nhượng. Ví dụ: Người mua bảo hiểm chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho người nhận chuyển nhượng vào tháng 01/2020. Theo đó, các bên thỏa thuận người nhận chuyển nhượng có trách nhiệm đóng phí từ tháng 01/2020. Tháng 3/2020, người mua bảo hiểm mới gửi thông báo về việc chuyển nhượng. Tháng 4/2020, doanh nghiệp bảo hiểm mới ban hành văn bản chấp thuận. Sau đó, nhận thấy việc nhận chuyển nhượng không có lợi, người nhận chuyển nhượng không đóng phí bảo hiểm. Vậy người mua bảo hiểm ban đầu hay người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm sẽ được nhận giá trị hoàn lại từ doanh nghiệp bảo hiểm theo khoản 3 Điều 35 Luật Kinh doanh bảo hiểm?
Thứ tư, điều kiện chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Pháp luật thực định không quy định về các điều kiện chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, điều này không gián tiếp khẳng định rằng người mua bảo hiểm tự do chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm do bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có nhu cầu nhận chuyển nhượng. Trên thực tế, rất nhiều điều kiện chuyển nhượng cần đặt ra như: Người nhận chuyển nhượng phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm hay không? Việc chuyển nhượng có cần được sự đồng ý của người được bảo hiểm hay không? Nghĩa vụ cung cấp thông tin về người nhận chuyển nhượng được thực hiện như thế nào?... Những câu hỏi pháp lý quan trọng này chưa được pháp luật thực định giải quyết, điều đó làm gia tăng rủi ro cho người nhận chuyển nhượng.
Thứ năm, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc chấp thuận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm của người mua bảo hiểm. Pháp luật hiện hành chưa quy định vấn để này. Theo đó, có thể hiểu người nhận chuyển nhượng mặc nhiên kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ từ hợp đồng bảo hiểm và mọi rủi ro từ việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm đều thuộc về người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Giả định, trong quá trình thức hiện hợp đồng, người mua bảo hiểm có vi phạm dẫn đến hợp đồng bị hủy bỏ hoặc bị vô hiệu nhưng người mua bảo hiểm không biết hoặc không thể biết thì việc buộc người nhận chuyển nhượng phải gánh chịu rủi ro là không hợp lý[3]. Tác giả cho rằng, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ đơn thuần là chấp thuận hay không chấp thuận việc chuyển nhượng mà còn phải đảm bảo quyền lợi của người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là bên “ngay tình”. Trường hợp sau khi bên mua bảo hiểm đã chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện và có bằng chứng chứng minh tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm đã cung cấp thông tin sai sự thật hoặc che giấu thông tin mà nếu biết được thông tin đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ từ chối chấp nhận bảo hiểm, trì hoãn chấp nhận bảo hiểm hoặc chấp nhận bảo hiểm với các điều kiện kèm theo, thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng, không phải giải quyết quyền lợi bảo hiểm đối với rủi ro của đối tượng bảo hiểm và có quyền thu phí đến thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận việc chuyển nhượng hợp đồng, đồng thời hoàn trả cho bên nhận chuyển nhượng hợp đồng số phí bảo hiểm mà họ đã đóng (trừ trường hợp bên nhận chuyển nhượng biết được hành vi cung cấp thông tin sai sự thật hoặc che giấu thông tin sai sự thật đó của bên mua bảo hiểm)[4].
Ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm khi chấp thuận việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm có giá trị pháp lý bảo vệ quyền lợi của người nhận chuyển nhượng và người thụ hưởng. Trên thực tế, các doanh nghiệp bảo hiểm đều thoả thuận với bên mua bảo hiểm về việc không chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của thoả thuận chuyển nhượng, từ đó dẫn đến tình trạng doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận việc chuyển nhượng để tiếp tục thu phí, đến khi sự kiện bảo hiểm xảy ra lại từ chối trả tiền bảo hiểm mà chỉ hoàn lại phí bảo hiểm vì hợp đồng không còn hiệu lực[5].
Thứ sáu, xác định hệ quả pháp lý của việc không thông báo về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm hoặc có thông báo về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhưng không được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận. Pháp hiện hành chưa quy định về vấn đề này. Vậy nếu người mua bảo hiểm và người nhận chuyển nhượng đã xác lập giao dịch chuyển nhượng nhưng chưa thông báo hoặc đã thông báo nhưng chưa được chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm mà sự kiện bảo hiểm xảy ra thì hợp đồng bảo hiểm được giao kết có hiệu lực pháp lý không?
Những vướng mắc nêu trên đã cản trở hoạt động chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trên thực tế, chưa thực sự bảo đảm quyền tự do ý chí của người mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm. Dưới góc độ kinh tế, việc hạn chế chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm làm giảm tính thanh khoản trong hoạt động đầu tư tài chính của bảo hiểm nhân thọ.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là nhu cầu tất yếu của người mua bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Do đó, pháp luật cần xây dựng theo hướng đảm bảo quyền được chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm và bảo vệ quyền lợi của bên nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung cụ thể là:
Thứ nhất, pháp luật thực định cần ghi nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là quyền đương nhiên của người mua bảo hiểm mà không cần sự chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm. Theo đó, người mua bảo hiểm được quyền chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho người khác nếu đáp ứng được các điều kiện chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm phải công nhận sự chuyển nhượng đó.
Thứ hai, cần thay thế thủ tục “chấp thuận” của doanh nghiệp bảo hiểm bằng thủ tục “xác nhận” trên thông báo chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Theo đó, thỏa thuận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm được xác lập một cách độc lập giữa người mua bảo hiểm và người nhận chuyển nhượng. Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ xác nhận thông tin chuyển nhượng đã được thông báo hợp lệ. Đồng thời, hiệu lực pháp lý của việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm được xác lập kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm xác nhận trên thông báo của người nhận chuyển nhượng.
Thứ ba, pháp luật thực định cần quy dịnh rõ thời hạn tối đa mà doanh nghiệp bảo hiểm phải xác nhận vào thông báo về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Bởi vì, dưới góc độ pháp lý, việc xác nhận chỉ đơn thuần là sự thừa nhận đã tiếp nhận thông tin chuyển nhượng mà không cần phải thẩm định, phân tích, đánh giá. Do đó, thời hạn xác nhận càng ngắn càng có lợi cho người nhận chuyển nhượng mà không gây bất lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Thứ tư, với bản chất là hoạt động đầu tư tài chính, pháp luật cần quy định nguyên tắc tự do thỏa thuận việc kế thừa quyền và nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, trong đó gồm phạm vi kế thừa, thời điểm kế thừa… Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ xác nhận người nhận chuyển nhượng với tư cách là chủ thể mua bảo hiểm từ thời điểm thông báo về việc chuyển nhượng được xác nhận mà không quan tâm đến các quyền và nghĩa vụ phát sinh trước thời điểm xác nhận được người mua bảo hiểm ban đầu và người nhận chuyển nhượng được thỏa thuận như thế nào. Cách tiếp cận này làm giảm rủi ro cho người nhận chuyển nhượng, tạo điều kiện cho người nhận chuyển nhượng ràng buộc và xử lý hậu quả đối với người mua ban đầu khi có tranh chấp xảy ra. Kiến nghị này ngược với quy định hiện nay là người nhận chuyển nhượng kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ phát sinh tư hợp đồng bảo hiểm nhận thọ tính từ này thông báo về việc chuyển nhượng được chấp thuận.
Thứ năm, pháp luật cần quy định điều kiện chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Theo quan điểm của tác giả, khi chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, các bên phải tuân thủ các điều kiện sau:
- Người nhận chuyển nhượng phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm;
- Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm phải có sự đồng ý của người được bảo hiểm trong trường hợp mua bảo hiểm tử kỳ. Bởi vì, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Kinh doanh bảo hiểm thì chỉ khi có sự thay đổi người thụ hưởng thì mới phải được sự đồng ý của người được bảo hiểm. Trong khi đó, việc thay đổi người mua bảo hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người được bảo hiểm.
- Người nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ được thay đổi người thụ hưởng khi được người được bảo hiểm đồng ý trong trường hợp mua bảo hiểm tử kỳ. Thực tế, khi thay đổi người mua bảo hiểm thường đi kèm với sự thay đổi ngườ thụ hưởng do có thay đối mối quan hệ về nghĩa vụ tài chính. Trong khi đó, khoản 1 Điều 38 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định “mọi trường hợp thay đổi người thụ hưởng phải có sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo hiểm” là chưa thể hiện được hết bản chất và ý nghĩa của sản phẩm bảo hiểm tử kỳ.
Thứ sáu, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm ngoài thủ tục xác nhận vào thông báo chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm thì còn phải có trách nhiệm cung cấp thông tin của hợp đồng bảo bảo đã giao kết khi người nhận chuyển nhượng có yêu cầu. Quy định này nhằm đảm bảo cho bên nhận chuyển nhượng tiếp nhận thông tin một cách khách quan từ bên thứ ba, hạn chế tình trạng che dấu thông tin của người mua bảo hiểm ban đầu.
Thứ bảy, cần quy định nội dung chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ bằng một quy định riêng để phù hợp với những đặc trưng riêng của bảo hiểm nhân thọ vừa là hoạt động chuyển giao rủi ro, vừa là hoạt động đầu tư tài chính. Việc quy định chung như pháp luật hiện hành chưa bảo đảm được bản chất của đầu tư tài chính trong bảo hiểm nhân thọ, coi việc chuyển nhượng hợp đồng chì đơn thuần là thay thế nghĩa vụ đóng phí của người mua bảo hiểm là chưa thỏa đáng.
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh