
Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với nhiều cơ hội và thách thức chưa từng có, đòi hỏi việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực, hiệu quả thi hành pháp luật trở thành nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Đất nước đang phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực: hội nhập quốc tế sâu rộng qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới; sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với chuyển đổi số toàn diện; cùng khát vọng trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045[1]. Trong hành trình phát triển này, pháp luật không chỉ là công cụ quản lý nhà nước mà còn là nền tảng kiến tạo môi trường ổn định, công bằng và minh bạch, thúc đẩy mọi nguồn lực xã hội phát triển.
![]() |
Ảnh do Vụ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cung cấp. |
1. Pháp luật trong “kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc - Bối cảnh và yêu cầu
Hiện, Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển năng động, được đánh dấu bằng những đặc điểm nổi bật, tạo nên bối cảnh đặc thù cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật:
Thứ nhất, Việt Nam tích cực tham gia các tổ chức quốc tế và ký kết nhiều FTA thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đã đặt ra yêu cầu cải cách thể chế, hoàn thiện pháp luật. Do đó, cần sớm nội luật hóa các cam kết nhằm tạo môi trường pháp lý tương thích, nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng tối đa lợi ích hội nhập và bảo vệ lợi ích quốc gia.
Thứ hai, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số làm thay đổi sâu sắc đời sống kinh tế - xã hội, đặt ra nhiều thách thức pháp lý mới như: bảo vệ dữ liệu cá nhân, giao dịch điện tử, tài sản số, mô hình kinh doanh mới... do đó, cần đổi mới tư duy lập pháp và thể chế hóa kịp thời các vấn đề này.
Thứ ba, mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 đòi hỏi pháp luật đóng vai trò trung tâm trong tháo gỡ “điểm nghẽn”, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội và củng cố đoàn kết dân tộc.
Trong bối cảnh mới, hệ thống pháp luật Việt Nam cần phải đáp ứng các yêu cầu cốt lõi, mang tính chiến lược nhằm phát huy tối đa vai trò của pháp luật trong sự phát triển của đất nước. Cụ thể: (i) pháp luật cần chủ động kiến tạo hành lang pháp lý cho các lĩnh vực mới như: Fintech, kinh tế xanh, năng lượng tái tạo..., đồng thời, khuyến khích đầu tư vào các ngành giá trị gia tăng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; (ii) hệ thống pháp luật phải hài hòa, tránh chồng chéo, mâu thuẫn; (iii) pháp luật phải dễ hiểu, dễ áp dụng, phù hợp thực tiễn; (iv) quy định pháp luật phải minh bạch, dễ tiếp cận, được lấy ý kiến rộng rãi; (v) pháp luật cần bảo vệ quyền con người theo Hiến pháp và điều ước quốc tế, nhất là trong kỷ nguyên số.
2. Thực trạng xây dựng và hoàn thiện pháp luật
Công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật là quá trình liên tục, phức tạp, đòi hỏi nỗ lực bền bỉ để đáp ứng yêu cầu phát triển. Trong “kỷ nguyên vươn mình”, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng nhưng còn những hạn chế và thách thức nhất định.
Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện và mở rộng bao quát nhiều lĩnh vực quan trọng. Việc Quốc hội thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) với quan điểm chuyển hướng chiến lược từ xây dựng sang hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 với quan điểm đổi mới tư duy xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, khuyến khích sáng tạo, khơi thông nguồn lực để phát triển… đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong kỷ nguyên mới. Trong giai đoạn 2015 - 2025, các bộ, cơ quan ngang bộ đã tham mưu, giúp Chính phủ trình Quốc hội thông qua 223 bộ luật, luật; trình Chính phủ ban hành 1.547 nghị định; đặc biệt, Bộ Tư pháp đã trực tiếp chủ trì soạn thảo, tham mưu, giúp Chính phủ trình Quốc hội thông qua 24 bộ luật, luật, trình Chính phủ ban hành 77 nghị định[2]. Pháp luật bao phủ đa dạng các lĩnh vực; nhiều đạo luật mới ra đời thể hiện tư duy đổi mới, phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thông lệ quốc tế, như: Luật Đầu tư năm 2020, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Đất đai năm 2024, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Luật An ninh mạng năm 2018… đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.
Quy trình xây dựng pháp luật đã được chuẩn hóa và nâng cao chất lượng với sự tham gia rộng rãi của các bên liên quan. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 quy định chặt chẽ các bước từ đề xuất, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra đến thông qua và công bố, bảo đảm tính công khai, minh bạch, khoa học. Việc lấy ý kiến các cơ quan, chuyên gia, doanh nghiệp và Nhân dân là khâu quan trọng giúp văn bản sát thực tiễn, khả thi và thể hiện nguyên tắc dân chủ trong hoạt động lập pháp.
Nhiều đạo luật quan trọng đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các luật về lĩnh vực kinh tế như: Luật Đầu tư năm 2020, Luật Doanh nghiệp năm 2020… được cải cách theo hướng giảm điều kiện kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp. Các luật về quyền con người như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung các năm 2017, 2025)… được hoàn thiện để bảo vệ tốt hơn quyền và tự do cơ bản của công dân. Trong bối cảnh hội nhập, các luật liên quan đến cam kết quốc tế như: Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019, 2022), Luật Hải quan năm 2014… giúp Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế và nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Việt Nam còn một số hạn chế, thách thức, đòi hỏi phải có những giải pháp căn cơ, quyết liệt. Cụ thể: (i) việc ban hành một số văn bản chi tiết, hướng dẫn còn chậm, thiếu đồng bộ, làm suy giảm hiệu lực thi hành; (ii) tốc độ ban hành văn bản chưa theo kịp thực tiễn, trong các lĩnh vực như kinh tế số, công nghệ cao, pháp luật chưa bắt kịp sự phát triển nhanh chóng, tạo “khoảng trống” pháp lý, gây khó khăn cho quản lý và cản trở đổi mới; (iii) hệ thống pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn; (iv) khả năng dự báo và chủ động kiến tạo còn yếu; (v) một số văn bản tính khả thi còn hạn chế.
3. Thực trạng nâng cao năng lực và hiệu quả thi hành pháp luật
Thi hành pháp luật là khâu cuối cùng, quan trọng nhất trong chu trình pháp luật, “biến” các quy định trên giấy thành hiện thực cuộc sống. Trong “kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc, nâng cao năng lực và hiệu quả thi hành pháp luật càng cấp thiết vì ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin của người dân, môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển bền vững.
Thi hành pháp luật có ý nghĩa “then chốt” đối với sự vận hành của Nhà nước pháp quyền và sự phát triển của xã hội. Thi hành pháp luật “biến” pháp luật thành hiện thực, bảo đảm công bằng xã hội thông qua các hoạt động bảo đảm luật pháp được thi hành nghiêm minh, công bằng. Từ đó, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc tạo môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch, giảm rủi ro pháp lý, khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm qua, công tác thi hành pháp luật ở Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều cơ quan, tổ chức đã nỗ lực trong công tác thi hành pháp luật: các cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát, Công an), các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc triển khai thi hành đồng bộ dưới nhiều hình thức. Nhiều chiến dịch, đợt cao điểm thi hành pháp luật đã được phát động và mang lại kết quả tích cực. Giai đoạn 2016 - 2023, các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương đã tiếp nhận, rà soát 171.567 văn bản quy phạm pháp luật[3], từ đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung, đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tháo gỡ những bất cập về thể chế, nhất là các điểm “ách tắc”, “nút thắt” về pháp luật. Ngày Pháp luật Việt Nam (09/11) hằng năm được triển khai đồng bộ, rộng khắp từ trung ương đến địa phương, tạo sự lan tỏa, góp phần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người dân về pháp luật...
Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành pháp luật ngày càng được củng cố. Số lượng cán bộ, công chức làm công tác pháp luật, pháp chế tăng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ từng bước được nâng cao thông qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Tính đến ngày 31/12/2024, cả nước có 8.153 người làm công tác pháp chế[4]. Hằng năm, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, địa phương tổ chức các hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, hội thảo, tọa đàm... nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng công tác cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật, pháp chế.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào thi hành pháp luật, việc xây dựng các cơ sở dữ liệu pháp luật, hệ thống quản lý hồ sơ điện tử, Cổng Dịch vụ công trực tuyến đã góp phần tăng cường tính minh bạch, giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp luật. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật và Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính được hoàn thiện, phát huy hiệu quả của công nghệ để khai thác miễn phí các dữ liệu, phục vụ nhu cầu quản lý xã hội và cá nhân.
Bên cạnh các thành tựu đạt được, công tác thi hành pháp luật còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục như: (i) chưa đổi mới triệt để tư duy thi hành pháp luật gắn với theo dõi, thi hành pháp luật; (ii) năng lực của cán bộ, công chức còn hạn chế, nhất là kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực mới như: kinh tế số, công nghệ cao, sở hữu trí tuệ; (iii) cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu, đặc biệt, tại các vùng sâu, vùng xa; (iv) công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa hiệu quả; (v) ý thức tuân thủ pháp luật của người dân, doanh nghiệp chưa cao; (vi) công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm còn bất cập; (vii) vai trò giám sát của người dân chưa phát huy hiệu quả.
4. Giải pháp đồng bộ cho xây dựng và hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao năng lực, hiệu quả thi hành pháp luật
Để xây dựng, hoàn thiện và thi hành pháp luật hiệu quả, phục vụ công cuộc phát triển đất nước, cần các giải pháp đồng bộ, toàn diện, được triển khai quyết liệt, có lộ trình rõ ràng và có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành.
Thứ nhất, tiếp tục tham mưu, triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác xây dựng, hoàn thiện và thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới, đặc biệt, tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, lần thứ XIV của Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; các chỉ đạo của Đảng về xây dựng pháp luật trong “kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc; cụ thể hóa các chỉ đạo trên trong quá trình triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025), xây dựng các luật về tổ chức bộ máy, các nghị quyết của Quốc hội; tổ chức triển khai thi hành các văn bản sau khi được ban hành.
Thứ hai, đối với công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật, cần thực hiện tổng thể các giải pháp sau:
- Nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật: tiếp tục hoàn thiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 nhằm tăng tính khoa học, khách quan, thực tiễn và tầm nhìn dài hạn trong quy trình xây dựng pháp luật để hoàn thiện cơ sở xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong kỷ nguyên mới. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo xu hướng phát triển, nhất là các lĩnh vực mới. Tăng cường trách nhiệm người đứng đầu trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
- Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật: tiếp tục rà soát, hệ thống hóa các quy định chồng chéo, mâu thuẫn. Thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành và địa phương trong toàn bộ quy trình xây dựng pháp luật. Phòng, chống tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
- Tăng cường tính dự báo và khả thi của pháp luật: chủ động xây dựng pháp luật trong các lĩnh vực mới, như: kinh tế số, công nghệ cao, cần có cơ chế nghiên cứu, thử nghiệm chính sách nhằm kiến tạo hành lang pháp lý linh hoạt. Bảo đảm nguồn lực thi hành trước khi ban hành chính sách.
- Mở rộng và nâng cao chất lượng lấy ý kiến đóng góp: mở rộng kênh và hình thức lấy ý kiến; ý kiến cần được tổng hợp và giải trình minh bạch. Phát huy vai trò các tổ chức xã hội, tăng cường phản biện xã hội, đặc biệt, với các chính sách ảnh hưởng rộng.
- Chú trọng nội luật hóa cam kết quốc tế: bảo đảm tương thích pháp luật trong nước thông qua việc nội luật hóa cam kết trong các FTA phải phù hợp với hệ thống pháp luật và điều kiện thực tế của Việt Nam. Nâng cao năng lực thực thi thông qua việc đào tạo đội ngũ chuyên gia có chuyên môn pháp luật quốc tế để đàm phán và thực hiện hiệu quả.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng pháp luật: hoàn thiện cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia theo hướng phát triển hệ thống tích hợp, dễ tra cứu, hỗ trợ soạn thảo và rà soát pháp luật. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data) trong xây dựng pháp luật; thí điểm công nghệ mới giúp phân tích dữ liệu, dự báo xu hướng và phát hiện mâu thuẫn pháp lý.
Thứ ba, nâng cao năng lực và hiệu quả thi hành pháp luật. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả thi hành pháp luật, cụ thể:
- Tiếp tục đổi mới tư duy của các bộ, ngành, địa phương theo hướng thi hành pháp luật gắn chặt chẽ, hữu cơ với xây dựng, hoàn thiện pháp luật; lấy nâng cao năng lực, hiệu quả công tác thi hành pháp luật là “thước đo” đánh giá công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật.
- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức thi hành pháp luật, pháp chế: thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về các lĩnh vực pháp luật mới, phức tạp, như: kinh tế số, an ninh mạng, sở hữu trí tuệ, phòng, chống rửa tiền; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thực thi, giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, xây dựng văn hóa liêm chính, chuyên nghiệp, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thi hành công vụ; đổi mới cơ chế tuyển dụng, đánh giá, bổ nhiệm, bảo đảm lựa chọn cán bộ có năng lực, phẩm chất, bố trí đúng người đúng việc.
- Cải cách hành chính, hiện đại hóa bộ máy thi hành pháp luật: rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính không cần thiết, gây phiền hà; chuẩn hóa quy trình, rút ngắn thời gian giải quyết. Xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, phát triển nền tảng dịch vụ công trực tuyến mức độ cao; ứng dụng công nghệ quản lý hồ sơ, giám sát thực thi, phân tích dữ liệu hỗ trợ việc ra quyết định chính xác hơn. Xây dựng quy chế phối hợp rõ ràng giữa các cơ quan có thẩm quyền trong thi hành pháp luật, đặc biệt, trong các vụ việc phức tạp.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của người dân và doanh nghiệp: sử dụng đa dạng kênh truyền thông và hình thức truyền thông giúp người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật; đưa nội dung pháp luật vào chương trình đào tạo, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật cho thế hệ trẻ; khuyến khích phổ biến, tư vấn pháp luật miễn phí. Qua giáo dục, tuyên truyền, thực thi nghiêm minh để hình thành ý thức tự giác, văn hóa tuân thủ pháp luật; tạo cơ chế khuyến khích, khen thưởng tổ chức, cá nhân tuân thủ tốt pháp luật.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật: thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên, đột xuất, trọng tâm, trọng điểm, ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả. Bảo đảm xử lý kịp thời, nghiêm minh, không có “vùng cấm”, ngoại lệ, công khai kết quả xử lý để tăng tính răn đe, củng cố niềm tin của Nhân dân. Nâng cao chất lượng Tòa án, trọng tài, hòa giải để giải quyết nhanh chóng, công bằng, hiệu quả.
- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong giám sát thi hành pháp luật: bảo đảm người dân dễ dàng phản ánh vi phạm hoặc bất cập trong quá trình thi hành pháp luật. Khuyến khích người dân tham gia giám sát qua Ban Thanh tra Nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng và các hình thức giám sát khác.
- Bảo đảm nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất cho công tác thi hành pháp luật: bảo đảm kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng; đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại cho công tác thi hành pháp luật.
Trong thời kỳ đất nước phát triển mạnh mẽ, xây dựng và hoàn thiện pháp luật đi đôi với nâng cao hiệu quả thi hành là yếu tố “then chốt”, quyết định sự thành công của chiến lược phát triển bền vững. Pháp luật đóng vai trò là trụ cột tạo lập nền tảng ổn định, công bằng, minh bạch cho quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội, từ đó, khai thông nguồn lực và tăng cường niềm tin của người dân, doanh nghiệp; là động lực quan trọng để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới./.
Vụ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp
[1]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[2]. Số liệu tính từ ngày 01/01/2015 đến ngày 01/7/2025.
[3]. Báo cáo số 270/BC-BTP ngày 03/7/2024 của Bộ Tư pháp tổng kết Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 (Báo cáo số 270/BC-BTP).
[4]. Báo cáo số 572/BC-BTP ngày 31/12/2024 của Bộ Tư pháp về tình hình công tác tư pháp năm 2024 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2025.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ấn phẩm đặc biệt “Ngành Tư pháp - Tự hào truyền thống, vững bước tương lai” xuất bản năm 2025)