Thứ năm 11/09/2025 06:17
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện pháp luật về cơ sở thẩm mỹ phi y tế để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật hiện hành về điều kiện và phạm vi hoạt động của cơ sở dịch vụ thẩm mỹ; nhận diện một số hạn chế, bất cập từ quy định pháp luật, cũng như thực tiễn áp dụng; từ đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ, góp phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi họ sử dụng dịch vụ được cung cấp bởi các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ.

Abstract: The article studies and analyzes current regulations on the conditions and scope of operation of cosmetic service establishments; identifies some limitations and shortcomings from legal regulations as well as practical application; thereby, it proposes some solutions to improve legal regulations on the management of cosmetic service establishments, contributing to protect the rights of consumers when they use services provided by cosmetic service establishments.

Đặt vấn đề

Cơ sở dịch vụ thẩm mỹ là nơi cung cấp các dịch vụ làm đẹp, chăm sóc sắc đẹp cho con người. Do nhu cầu của các đối tượng khách hàng nên phạm vi hoạt động của các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ ngày càng được mở rộng, từ dịch vụ đơn giản đến các kỹ thuật chuyên sâu cần có sự can thiệp của các dụng cụ y tế. Chính vì sự phát triển đa dạng này mà không ít người nhầm lẫn giữa cơ sở thẩm mỹ thông thường (hay còn gọi là cơ sở thẩm mỹ phi y tế) và cơ sở thẩm mỹ y tế, đặc biệt, khi các dịch vụ thẩm mỹ có sự can thiệp vào cơ thể người.

Tuy nhiên, việc xác định cơ sở thẩm mỹ có hợp pháp hay không, có đáp ứng được những điều kiện mà pháp luật quy định, cũng như xác định trách nhiệm của các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ khi phát sinh rủi ro… chưa được người tiêu dùng nhận diện rõ, đặc biệt là các cơ sở thẩm mỹ phi y tế. Do vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi sử dụng dịch vụ tại các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ là thực sự cần thiết.

1. Quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các cơ sở thẩm mỹ phi y tế

Khoản 12 Điều 40 Nghị định số 96/2023/NĐ-CP ngày 30/12/2023 của Chính phủ hướng dẫn Luật Khám bệnh, chữa bệnh (Nghị định số 96/2023/NĐ-CP) quy định, nếu cơ sở cung cấp dịch vụ thẩm mỹ có sử dụng thuốc, các chất, thiết bị để can thiệp vào cơ thể người như phẫu thuật, thủ thuật, các can thiệp có tiêm, chích, bơm, chiếu tia, sóng, đốt hoặc các can thiệp xâm lấn khác thì phải được thành lập theo một trong các hình thức tổ chức là bệnh viện, phòng khám đa khoa hoặc phòng khám chuyên khoa. Đây là những mô hình được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực y tế, có đội ngũ bác sĩ được đào tạo chuyên môn và trang thiết bị bảo đảm an toàn. Quy định này phần nào giúp phân định ranh giới giữa các cơ sở thẩm mỹ được coi là cơ sở y tế với các cơ sở thẩm mỹ thông thường. Điều này cho thấy, chỉ cần có yếu tố xâm lấn và sử dụng thuốc thì dịch vụ đó đã vượt qua phạm vi của hoạt động thẩm mỹ thông thường.

Vì vậy, người tiêu dùng cần đặc biệt thận trọng trước khi lựa chọn bất kỳ dịch vụ thẩm mỹ nào, cần tìm hiểu rõ về tính pháp lý của cơ sở dịch vụ thẩm mỹ và điều kiện hành nghề của người thực hiện dịch vụ thẩm mỹ y tế. Việc bỏ qua những yếu tố này có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, từ biến chứng thẩm mỹ đến các tranh chấp pháp lý không mong muốn. Nếu có yếu tố can thiệp y học, sử dụng thuốc, thiết bị hoặc kỹ thuật xâm lấn, thì cơ sở đó nhất định phải được thành lập, tổ chức và vận hành với hình thức cơ sở y tế hợp pháp theo quy định của pháp luật. Hiểu rõ điều này sẽ giúp người tiêu dùng chủ động hơn trong việc bảo vệ bản thân, đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng và an toàn trong lĩnh vực thẩm mỹ hiện nay.

Như vậy, pháp luật hiện hành đã quy định về các cơ sở thẩm mỹ được xem là cơ sở y tế. Tuy nhiên, đối với các cơ sở thẩm mỹ phi y tế như các spa, cơ sở làm đẹp đơn thuần thì chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh.

Trước đây, Nghị định số 109/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (Nghị định số 109/2016/NĐ-CP), có sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại hình cơ sở thẩm mỹ là: cơ sở dịch vụ thẩm mỹ phi y tế và cơ sở thẩm mỹ có yếu tố can thiệp y học, giúp công tác quản lý minh bạch và dễ dàng hơn.

Xét về khía cạnh pháp luật, việc đưa quy định về cơ sở thẩm mỹ phi y tế vào cùng nghị định hướng dẫn Luật Khám bệnh, chữa bệnh (như quy định tại Nghị định số 109/2016/NĐ-CP) là chưa thực sự hợp lý. Bởi lẽ, những cơ sở không thực hiện khám, chữa bệnh thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Vì vậy, việc bỏ quy định về các cơ sở thẩm mỹ phi y tế ra khỏi Nghị định số 96/2023/NĐ-CP - nghị định hướng dẫn Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 là phù hợp. Tuy nhiên, điều này tạo “khoảng trống” pháp lý khi các cơ sở thẩm mỹ phi y tế không còn nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật y tế, dẫn đến việc quản lý điều kiện hoạt động, nhân sự, thiết bị và tiêu chuẩn an toàn của các cơ sở này bị “bỏ ngỏ”. Điều này có thể dẫn đến tình trạng một số cơ sở hoạt động tràn lan, gây rủi ro cho người tiêu dùng mà không có chế tài cụ thể để kiểm soát.

Điều 37 Nghị định số 109/2016/NĐ-CP quy định rõ điều kiện hoạt động đối với cơ sở dịch vụ thẩm mỹ không thuộc loại hình cơ sở y tế. Theo đó, các cơ sở này chỉ được thực hiện các dịch vụ như xăm, phun, thêu trên da không sử dụng thuốc gây tê dạng tiêm và phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị, nhân sự và quản lý. Cụ thể, về cơ sở vật chất, cơ sở phải có địa điểm cố định và bảo đảm điều kiện vệ sinh; về thiết bị, cần có đủ thiết bị, dụng cụ, vật tư phù hợp với phạm vi hoạt động và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; về nhân sự, người thực hiện dịch vụ phải có giấy chứng nhận hoặc chứng chỉ đào tạo, dạy nghề hợp pháp do cơ sở có thẩm quyền cấp. Về quản lý, mặc dù không phải xin giấy phép hoạt động như các cơ sở y tế nhưng các cơ sở này vẫn phải gửi văn bản thông báo đủ điều kiện hoạt động đến Sở Y tế địa phương nơi đặt trụ sở ít nhất 10 ngày trước khi hoạt động, theo mẫu quy định. Điều 37 Nghị định số 109/2016/NĐ-CP cũng quy định đối với các dịch vụ thẩm mỹ có sử dụng thuốc, các chất, thiết bị để can thiệp vào cơ thể người như phẫu thuật thẩm mỹ, tiêm filler, botox, chiếu tia, đốt, hút mỡ,… hoặc kể cả xăm, phun, thêu có dùng thuốc gây tê dạng tiêm, chỉ được thực hiện tại các bệnh viện có chuyên khoa thẩm mỹ, phòng khám chuyên khoa thẩm mỹ hoặc cơ sở khám, chữa bệnh được phê duyệt chuyên môn về thẩm mỹ.

Như vậy, việc hoạt động của các cơ sở thẩm mỹ phi y tế không được điều chỉnh bởi pháp luật về y tế cho thấy có sự thay đổi cơ bản về điều kiện kinh doanh. Theo đó, các cơ sở thẩm mỹ phi y tế từ hoạt động kinh doanh có điều kiện trở thành kinh doanh thông thường và chỉ cần đáp ứng điều kiện về đăng ký kinh doanh. Bên cạnh đó, quy định về bảo đảm chất lượng dịch vụ trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 cũng hạn chế hơn so với bảo đảm chất lượng đối với hàng hóa lưu thông trên thị trường. Do đó, việc “nới lỏng” quản lý hay nói cách khác là thiếu quy định cụ thể đối với nhóm cơ sở thẩm mỹ này có thể tạo ra nhiều rủi ro cho người tiêu dùng khi các dịch vụ mà cơ sở thẩm mỹ phi y tế cung ứng cũng cần phải bảo đảm chất lượng nhất định và do những người được đào tạo, có kỹ năng và kỹ thuật phù hợp thực hiện. Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường thẩm mỹ tại Việt Nam được đánh giá có mức tăng trưởng nhanh và mạnh, với giá trị đạt 1,2 tỷ đô la Mỹ vào năm 2022 và dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ 10% trong những năm tới[1]. Sự tăng trưởng này chủ yếu được thúc đẩy bởi nhu cầu ngày càng gia tăng đối với các dịch vụ làm đẹp, gồm tiêm chất làm đầy, nâng ngực và phẫu thuật thẩm mỹ[2]. Tuy nhiên, theo thống kê, mỗi năm Việt Nam ghi nhận từ 25.000 đến 35.000 ca biến chứng thẩm mỹ[3]. Điều này cho thấy, chất lượng hoạt động của các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ là vấn đề đáng lo ngại, do đó, cần được quản lý chặt chẽ, không thể “nới lỏng” như hiện nay.

Việc thiếu quy định về điều kiện, phạm vi hoạt động của các cơ sở thẩm mỹ phi y tế dẫn đến khó khăn trong quản lý chất lượng của các cơ sở này. Với sự bùng nổ của các nền tảng mạng xã hội như: Facebook, Instagram, TikTok, nhiều cơ sở thẩm mỹ quảng cáo dịch vụ một cách dễ dàng và không chịu sự kiểm soát chặt chẽ[4]. Các quảng cáo này thường thiếu minh bạch, đưa ra những cam kết không có cơ sở hoặc thậm chí vi phạm các quy định về an toàn y tế và thẩm mỹ. Do đó, rất khó để cơ quan chức năng có thể kiểm soát và xử lý kịp thời những quảng cáo sai lệch, gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó, việc kiểm soát hoạt động đào tạo nghề thẩm mỹ cũng đang gặp phải những khó khăn nhất định. Mặc dù, nhiều cơ sở đào tạo thẩm mỹ được cấp phép hoạt động, nhưng còn tồn tại tình trạng các cơ sở đào tạo “chui”, không có giấy phép, đào tạo không đạt chuẩn[5]. Điều này dẫn đến những người hành nghề thẩm mỹ không được đào tạo bài bản, thiếu kiến thức và kỹ năng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ cũng như an toàn của người tiêu dùng.

Ngoài ra, các cơ sở thẩm mỹ phi y tế còn có những sai phạm khi thực hiện các dịch vụ không thuộc phạm vi hoạt động của mình. Có những cơ sở thẩm mỹ phi y tế thậm chí còn sử dụng các dụng cụ, trang thiết bị y tế sử dụng trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh[6]. Những dịch vụ “chui” có thể làm cho người tiêu dùng gặp phải những biến chứng phức tạp, không chỉ về thể chất mà còn về tinh thần[7]. Nghiên cứu cho thấy, kiến thức, thực hành chuyên môn, bằng cấp, trình độ của nhân viên tại các cơ sở thẩm mỹ còn thấp[8]. Kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn của các nhân viên cơ sở thẩm mỹ tư nhân còn khá thấp, thậm chí, có đến 42,5% nhân viên chỉ đạt kiến thức trung bình và kém về kiểm soát nhiễm khuẩn[9]. Do đó, nếu các nhân viên không được đào tạo để có được những kiến thức cơ bản và mức độ tay nghề nhất định thì rủi ro gây ra cho người tiêu dùng là không thể tránh khỏi. Hơn nữa, nhiều cơ sở thẩm mỹ phi y tế cung cấp dịch vụ không thuộc phạm vi hoạt động, “lấn sân” sang phạm vi hành nghề của cơ sở thẩm mỹ y tế, trong khi không bảo đảm điều kiện hoạt động là vi phạm rất nghiêm trọng. Từ đó, có thể gây ra những tai biến thẩm mỹ không thể kiểm soát, thậm chí không thể được xử lý kịp thời do thiếu trang thiết bị cũng như nguồn nhân lực phù hợp, trong khi nhu cầu thẩm mỹ của người tiêu dùng ngày càng tăng, đặc biệt, tại các thành phố lớn như thành phố Hà Nội[10], Thành phố Hồ Chí Minh[11]. Như vậy, có thể thấy, người tiêu dùng đang phải đối mặt với rất nhiều rủi ro khi sử dụng các dịch vụ thẩm mỹ tại các cơ sở thẩm mỹ phi y tế.

Do đó, để bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng và nâng cao chất lượng dịch vụ trong ngành thẩm mỹ, quy định về điều kiện hoạt động đối với các cơ sở thẩm mỹ phi y tế đóng vai trò quan trọng, đồng thời, các quy định pháp luật cần phải được thực thi nghiêm ngặt hơn từ quy trình cấp phép đến công tác giám sát sau cấp phép.

2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cơ sở thẩm mỹ phi y tế nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Một là, cần quy định cụ thể hơn về hoạt động của các cơ sở thẩm mỹ phi y tế. Vì hoạt động của các cơ sở thẩm mỹ phi y tế có liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc và tác động đến sức khỏe, ngoại hình con người, nên việc xây dựng khung pháp lý cụ thể, rõ ràng là rất cần thiết. Trong đó, Bộ Y tế là cơ quan quản lý cần ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết về hoạt động của các cơ sở này nhằm bảo đảm tính thống nhất và nhất quán trong quản lý. Một trong những nội dung trọng tâm cần được làm rõ là khái niệm về “cơ sở thẩm mỹ phi y tế”. Hiện, chưa có định nghĩa chính thức, cách xác định thực tế và khả thi nhất là sử dụng phương pháp loại trừ. Theo đó, các cơ sở thẩm mỹ phi y tế là những cơ sở không thực hiện các dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh tại khoản 12 Điều 40 Nghị định số 96/2023/NĐ-CP, tức là “cơ sở thẩm mỹ không can thiệp xâm lấn vào cơ thể người, không sử dụng thuốc gây tê dạng tiêm và không thuộc loại hình cần có giấy phép hoạt động y tế”. Tuy nhiên, chỉ xác định loại hình là chưa đủ. Để bảo đảm quản lý hiệu quả, cần quy định cụ thể danh mục các dịch vụ thẩm mỹ phi y tế được phép cung cấp. Trên cơ sở đó, cần thiết lập các điều kiện tương ứng về cơ sở 12. “Thẩm mỹ “chui” và những mối họa”, tlđd. Dân chủ và Pháp luật vật chất, tiêu chuẩn thiết bị, cũng như yêu cầu tối thiểu về trình độ, chứng chỉ đào tạo nghề của người thực hiện. Điều quan trọng là cần phân loại dịch vụ rõ ràng để áp dụng điều kiện phù hợp, tránh việc đặt ra yêu cầu quá cao cho những dịch vụ đơn giản, buông lỏng quản lý những dịch vụ có tính rủi ro. Chỉ khi có quy định rõ ràng, phù hợp với thực tiễn, việc quản lý mới thực sự hiệu quả, đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người tiêu dùng.

Hai là, cần quy định rõ tên gọi của cơ sở thẩm mỹ phi y tế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn của người tiêu dùng hiện nay là do tên gọi của các cơ sở thẩm mỹ phi y tế chưa được quy định và quản lý chặt chẽ. Các tên gọi phổ biến như “thẩm mỹ viện”, “viện thẩm mỹ” hay “trung tâm thẩm mỹ” làm cho khách hàng lầm tưởng đây là những cơ sở y tế có chuyên môn sâu, được phép thực hiện các thủ thuật, phẫu thuật thẩm mỹ hoặc can thiệp chuyên môn vào cơ thể người[12]. Thực tế, nhiều cơ sở trong số đó không có giấy phép hành nghề y tế, thậm chí không có đội ngũ nhân sự đủ chuyên môn, dẫn đến việc người tiêu dùng đặt niềm tin sai chỗ, gây hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe. Không chỉ vậy, cách đặt tên như trên làm cho nhiều người hiểu nhầm các cơ sở này có chức năng đào tạo nghề thẩm mỹ, tạo điều kiện cho các khóa học “chui”, thiếu kiểm soát, phát triển tràn lan[1]3. Chính vì vậy, để bảo đảm tính minh bạch và giúp người tiêu dùng dễ phân biệt, cần phải có quy định cụ thể và thống nhất về cách đặt tên cho các cơ sở thẩm mỹ phi y tế. Các tên gọi có yếu tố “viện”, “trung tâm” hay từ ngữ dễ gây hiểu nhầm về chức năng chuyên môn hoặc giáo dục, đào tạo cần bị hạn chế sử dụng nếu cơ sở đó không được cấp phép tương ứng. Đây không chỉ là biện pháp quản lý hành chính mà còn là cách để bảo vệ quyền lợi và sự an toàn của người tiêu dùng trong bối cảnh thị trường thẩm mỹ đang phát triển nhanh chóng và phức tạp như hiện nay.

Ba là, cần phải quy định về việc lập hợp đồng bằng văn bản đối với các hoạt động cung ứng dịch vụ thẩm mỹ có khả năng gây biến chứng cho người tiêu dùng. Trên thực tế, không ít trường hợp người sử dụng dịch vụ gặp phải hậu quả nghiêm trọng như dị ứng, nhiễm trùng, hoại tử… nhưng khó có căn cứ pháp lý để yêu cầu cơ sở thẩm mỹ chịu trách nhiệm, vì toàn bộ thỏa thuận trước đó chỉ được thực hiện bằng lời nói. Không có văn bản ghi nhận rõ ràng, cơ sở thẩm mỹ dễ dàng chối bỏ trách nhiệm, trong khi thiệt hại thực tế do khách hàng gánh chịu. Chính vì vậy, văn bản hợp đồng không chỉ là hình thức pháp lý cần thiết mà còn là công cụ để minh bạch hóa thông tin, giúp người tiêu dùng hiểu rõ dịch vụ mình sử dụng, gồm quy trình thực hiện, rủi ro có thể xảy ra, nghĩa vụ của người thực hiện, cũng như chính sách xử lý khi xảy ra sự cố. Đối với những dịch vụ có rủi ro cao, việc ký hợp đồng bằng văn bản lại càng mang tính cấp thiết. Đồng thời, có thể nghiên cứu áp dụng cơ chế đăng ký hợp đồng theo mẫu đối với một số loại dịch vụ thẩm mỹ nhất định, không chỉ giúp phòng ngừa rủi ro và tranh chấp pháp lý, mà còn góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp, minh bạch của thị trường thẩm mỹ phi y tế hiện nay.

Bốn là, các cơ sở thẩm mỹ cần tuân thủ quy định về quảng cáo, cung cấp thông tin minh bạch và chính xác, không phóng đại hoặc gây hiểu lầm về hiệu quả của dịch vụ. Thông tin về dịch vụ phải đầy đủ, gồm lợi ích và các rủi ro tiềm ẩn, để người tiêu dùng có thể đưa ra quyết định sáng suốt. Đồng thời, quảng cáo trên mạng xã hội cần được giám sát chặt chẽ để tránh tình trạng đưa thông tin sai lệch hoặc thiếu chính xác. Bên cạnh đó, cơ sở thẩm mỹ cần phải cung cấp thông tin rõ ràng về đội ngũ nhân viên, gồm trình độ chuyên môn và chứng chỉ hành nghề hợp pháp để khách hàng yên tâm hơn khi sử dụng dịch vụ. Để các hoạt động quảng cáo trên được thực hiện đúng quy định, việc quản lý của các cơ quan nhà nước là đặc biệt quan trọng. Việc theo dõi, kiểm tra và phát hiện các vi phạm cần được thực hiện thường xuyên, có hiệu quả để phòng ngừa và ngăn chặn nguy cơ rủi ro từ các cơ sở thẩm mỹ chưa đủ điều kiện cấp phép.

Kết luận

Thẩm mỹ là nhu cầu chính đáng và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, quy định pháp luật về hoạt động của các cơ sở thẩm mỹ, đặc biệt là cơ sở thẩm mỹ phi y tế, còn nhiều bất cập, chưa chặt chẽ, đầy đủ để theo kịp thực tế. Điều này tiềm ẩn không ít rủi ro cho người tiêu dùng, từ chất lượng dịch vụ, đến an toàn sức khỏe. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là Bộ Y tế cần ban hành các quy định cụ thể, rõ ràng và phù hợp hơn nhằm quản lý hiệu quả hoạt động của các cơ sở thẩm mỹ phi y tế, qua đó, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng trong lĩnh vực này./.

TS. Nguyễn Trường Ngọc

Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

ThS. Phan Thị Hương Giang

Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

[1]. “Xu hướng và tiềm năng của ngành thẩm mỹ trong năm 2025”, https://caodangyduocvietnam.com/xu-huong-va-tiem-nang-cua-nganh-tham-my-trong-nam-2025/, truy cập ngày 15/6/2025.

[2]. “Xu hướng và tiềm năng của ngành thẩm mỹ trong năm 2025”, tlđd.

[3]. Hoàng Lê, “Mỗi năm, Việt Nam xảy ra đến 35.000 ca biến chứng thẩm mỹ”, https://dantri.com.vn/ suc-khoe/moi-nam-viet-nam-xay-ra-35000-ca-bien-chung-tham-my-20220526123426025.htm, truy cập ngày 15/6/2025.

[4]. Đinh Hằng, “TP. Hồ Chí Minh gặp nhiều khó khăn trong quản lý các cơ sở thẩm mỹ”, https://www.vietnamplus.vn/tp-ho-chi-minh-gap-nhieu-kho-khan-trong-quan-ly-cac-co-so-tham-my-post971993.vnp, truy cập ngày 15/6/2025.

[5]. Thu Hiến, “Phát hiện cơ sở thẩm mỹ ‘chui’ đang đào tạo trái phép”, https://tuoitre.vn/phat-hien-co-so-tham-my-chui-dang-dao-tao-trai-phep-20240304135122128.htm, truy cập ngày 15/6/2025.

[6]. Thu Hiến, tlđd.

[7]. “Thẩm mỹ ‘chui’ và những mối họa”, https://cand.com.vn/Ban-doc-cand/tham-my-chui-va nhung-moi-hoa-i724226/, truy cập ngày 15/6/2025.

[8]. Nhơn Nguyễn Ngọc và Đà Phạm Xuân, “Thực trạng hoạt động của các cơ sở spa thẩm mỹ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, https://tapchiyhcd.vn/index.php/yhcd/article/view/892, truy cập ngày 15/6/2025.

[9]. Ngọc Cao Xuân, “Kiến thức và nhu cầu đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn của nhân viên y tế tại một số cơ sở thẩm mỹ tư nhân tại Hà Nội”, (Thesis, TLU, 2020), http://thuvienso.thanglong.edu. vn//handle/TLU/2760, truy cập ngày 15/6/2025.

[10]. Mai Anh, “Liên tiếp các vụ tai biến tại các cơ sở thẩm mỹ: Vì đâu nên nỗi?”, https://suckhoedoisong.vn/ lien-tiep-cac-vu-tai-bien-tai-cac-co-so-tham-my-vi-dau-nen-noi-169167414.htm, truy cập ngày 15/6/2025.

[11]. Thanh Tuyền, Lê Thoa & Bảo Phương, “Thành phố Hồ Chí Minh: Hơn 85% cơ sở thẩm mỹ không cần qua thẩm định, cấp phép”, https://plo.vn/tphcm-hon-85-co-so-tham-my-khong-can-qua-tham-dinh-cap-phep-post741805.html, truy cập ngày 15/6/2025.

[12]. “Thẩm mỹ “chui” và những mối họa”, tlđd.

[13]. Thu Hiến, tlđd.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. “Xu hướng và tiềm năng của ngành thẩm mỹ trong năm 2025”, https:// caodangyduocvietnam.com/xu-huong-va-tiem nang-cua-nganh-tham-my-trong-nam-2025/, truy cập ngày 15/6/2025.

2. Hoàng Lê, “Mỗi năm, Việt Nam xảy ra đến 35.000 ca biến chứng thẩm mỹ”, https://dantri.com. vn/suc-khoe/moi-nam-viet-nam-xay-ra-35000 ca-bien-chung-tham-my-20220526123426025. htm, truy cập ngày 15/6/2025.

3. Đinh Hằng, “TP. Hồ Chí Minh gặp nhiều khó khăn trong quản lý các cơ sở thẩm mỹ”, https://www.vietnamplus.vn/tp-ho-chi-minh-gap-nhieu-kho-khan-trong-quan-ly-cac-co-so-tham-my-post971993. vnp, truy cập ngày 15/6/2025.

4. Thu Hiến, “Phát hiện cơ sở thẩm mỹ ‘chui’ đang đào tạo trái phép”, https://tuoitre. vn/phat-hien-co-so-tham-my-chui-dang dao-tao-trai-phep-20240304135122128. htm, truy cập ngày 15/6/2025.

5. “Thẩm mỹ ‘chui’ và những mối họa”, https://cand.com.vn/Ban-doc-cand/tham my-chui-va-nhung-moi-hoa-i724226/, truy cập ngày 10/6/2025.

6. Nhơn Nguyễn Ngọc & Đà Phạm Xuân, “Thực trạng hoạt động của các cơ sở spa thẩm mỹ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, https://tapchiyhcd.vn/ index.php/yhcd/article/view/892, truy cập ngày 15/6/2025.

7. Ngọc Cao Xuân, “Kiến thức và nhu cầu đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn của nhân viên y tế tại một số cơ sở thẩm mỹ tư nhân tại Hà nội”, (Thesis, TLU, 2020), http://thuvienso. thanglong.edu.vn//handle/TLU/2760,truy cập ngày 15/6/2025.

8. Thanh Tuyền, Lê Thoa & Bảo Phương, “TP.HCM: Hơn 85% cơ sở thẩm mỹ không cần qua thẩm định, cấp phép”, https:// plo.vn/tphcm-hon-85-co-so-tham my-khong-can-qua-tham-dinh-cap phep-post741805.html, truy cập ngày 15/6/2025.

9. Mai Anh, “Liên tiếp các vụ tai biến tại các cơ sở thẩm mỹ: Vì đâu nên nỗi?”, https://suckhoedoisong.vn/lien-tiep-cac vu-tai-bien-tai-cac-co-so-tham-my-vi dau-nen-noi-169167414.htm, truy cập ngày 15/6/2025.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (433) - tháng 7/2025)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật ở Việt Nam

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật ở Việt Nam

Bài viết nghiên cứu chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật, đồng thời, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tuyển dụng người khuyết tật, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tuyển dụng người khuyết tật.
Hoàn thiện pháp luật về cơ sở thẩm mỹ phi y tế để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Hoàn thiện pháp luật về cơ sở thẩm mỹ phi y tế để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật hiện hành về điều kiện và phạm vi hoạt động của cơ sở dịch vụ thẩm mỹ; nhận diện một số hạn chế, bất cập từ quy định pháp luật, cũng như thực tiễn áp dụng; từ đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ, góp phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi họ sử dụng dịch vụ được cung cấp bởi các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ.
Pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu của khách hàng cá nhân tại ngân hàng thương mại

Pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu của khách hàng cá nhân tại ngân hàng thương mại

Sự phát triển của công nghệ số làm gia tăng đáng kể những nguy cơ về bảo mật dữ liệu khách hàng. Thực tiễn, đã có nhiều trường hợp xâm phạm dữ liệu khách hàng gây hậu quả nghiêm trọng. Việc bảo vệ dữ liệu của khách hàng không chỉ là yêu cầu pháp lý mà còn là yếu tố quyết định sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng thương mại. Bài viết phân tích cơ sở pháp lý và thực tiễn bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu của khách hàng cá nhân, từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm bảo vệ quyền này trong lĩnh vực ngân hàng.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024

Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024

Bài viết phân tích, đánh giá một số điểm mới của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 so với Luật Giao thông đường bộ năm 2008, từ đó, đưa ra một số dự báo về những tác động của Luật này đối với đời sống xã hội và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 trong thời gian tới.
Hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ tài chính ở Việt Nam

Hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ tài chính ở Việt Nam

Pháp luật điều chỉnh lĩnh vực ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm tài chính, ngân hàng là vấn đề mới ở Việt Nam. Vì thế, trong những năm qua, Việt Nam đã có chủ trương, yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này nhằm thiết lập khung pháp lý đầy đủ, hiệu quả, phù hợp với xu thế chung của quốc tế và bối cảnh của Việt Nam trong giai đoạn mới. Bài viết nghiên cứu một số vấn đề chung về ứng dụng công nghệ tài chính; cách tiếp cận phổ biến trên thế giới và giải pháp hoàn thiện pháp luật về ứng dụng công nghệ tài chính tại Việt Nam.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật ở Việt Nam

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật ở Việt Nam

Người khuyết tật đã tham gia vào nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội. Tuyển dụng người khuyết tật đóng góp tích cực trong thúc đẩy thực hiện quyền làm việc của người khuyết tật. Bài viết nghiên cứu chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật, đồng thời, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tuyển dụng người khuyết tật, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tuyển dụng người khuyết tật.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024

Bài viết tập trung phân tích những điểm mới quan trọng của Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024, đồng thời, nhận diện một số khó khăn, vướng mắc có thể phát sinh khi triển khai thi hành Luật; từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 trong thời gian tới.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thừa phát lại

Hoàn thiện quy định pháp luật về thừa phát lại

Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành một số quy định trong hoạt động Thừa phát lại như: Chi phí cấp bản sao vi bằng do Văn phòng Thừa phát lại đang lưu trữ bản chính; thời hạn gửi vi bằng cùng các tài liệu đính kèm đến Sở Tư pháp kể từ ngày kết thúc lập vi bằng; chi phí hoạt động Thừa phát lại tống đạt giấy tờ, hồ sơ tài liệu theo hợp đồng dịch vụ; từ đó, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện một số quy định pháp luật về hoạt động Thừa phát lại.
Pháp luật về đăng ký khai sinh cho trẻ chưa xác định được cha, mẹ - Một số bất cập và hướng hoàn thiện

Pháp luật về đăng ký khai sinh cho trẻ chưa xác định được cha, mẹ - Một số bất cập và hướng hoàn thiện

Khai sinh là khai báo và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận một cá nhân được sinh ra; là một trong những sự kiện hộ tịch để xác định cá nhân là thực thể của tự nhiên, xã hội. Đăng ký khai sinh và cấp giấy khai sinh có ý nghĩa pháp lý đầu tiên chứng minh nhân thân của cá nhân, bất kể cá nhân sinh ra có đủ cha, mẹ hay không. Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền và nội dung đăng ký khai sinh cho trẻ chưa xác định được cha, mẹ. Từ đó, chỉ ra những hạn chế trong quy định của pháp luật về vấn đề này, đồng thời, đề xuất những giải pháp hoàn thiện.
Gian lận thuế trong giao dịch bất động sản - Thực trạng và một số kiến nghị pháp luật

Gian lận thuế trong giao dịch bất động sản - Thực trạng và một số kiến nghị pháp luật

Gian lận thuế phản ánh tình trạng người nộp thuế, bằng những thủ đoạn khác nhau để làm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp cho Nhà nước. Bài viết tập trung làm rõ bản chất của gian lận thuế trong giao dịch bất động sản và kiến nghị giải pháp phòng ngừa.
Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn xét xử liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp không có thỏa thuận về chế độ tài sản. Trên cơ sở phân tích khung pháp lý, các nguyên tắc chia tài sản và một số bản án điển hình, nghiên cứu làm rõ những vướng mắc như xác định tài sản chung - riêng, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung khi ly hôn theo hướng công bằng và hiệu quả hơn.
Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015 - Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015 - Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) thể hiện sự khoan hồng, nhân văn của pháp luật Việt Nam đối với người phạm tội. Tuy nhiên, việc áp dụng các tình tiết này trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự còn những bất cập nhất định. Bài viết nghiên cứu, làm rõ một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư xanh tại Việt Nam

Hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư xanh tại Việt Nam

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường toàn cầu, đầu tư xanh trở thành xu thế tất yếu nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực thúc đẩy đầu tư xanh thông qua việc ban hành nhiều chính sách, pháp luật ưu đãi. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, hệ thống pháp luật hiện còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho quá trình triển khai thực hiện. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật ưu đãi đầu tư xanh tại Việt Nam, đồng thời, chỉ ra những kết quả đạt được, các hạn chế còn tồn tại và đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển đầu tư xanh hiệu quả, đồng bộ, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.

Giải pháp tái cơ cấu tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu ở Việt Nam hiện nay

Bài viết phân tích thực trạng quy định pháp luật về tái cơ cấu tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu ở Việt Nam trong Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và Nghị quyết số 148/NQ-CP ngày 20/9/2023 của Chính phủ tiếp tục triển khai thi hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.

Hiệu quả của Nghị định số 168/2024/NĐ-CP trong việc giảm thiểu tai nạn và nâng cao văn hóa giao thông

Bài viết phân tích, đánh giá hiệu quả của Nghị định số 168/NĐ-CP ngày 26/12/2024 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông trong lĩnh vực giao thông đường bộ; trừ điểm, phục hồi điểm giấy phép lái xe trong việc giảm thiểu tai nạn và nâng cao văn hóa giao thông. Trên cơ sở đánh giá một số điểm còn hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và khó khăn, vướng mắc khi thực hiện, bài viết đưa ra khuyến nghị sửa đổi một số quy định nhằm nâng cao hiệu quả thi hành của Nghị định và cải thiện tình hình giao thông trong thời gian tới.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi