Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thẩm phán phải thực hiện nhiều nhiều hoạt động và ra các quyết định tố tụng khác nhau, tùy từng vụ án nhưng phải theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Những quyết định tố tụng ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là do thẩm phán nghiên cứu hồ sơ và xem xét sự cần thiết để ra các quyết định tố tụng phù hợp như: Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; trả hồ sơ điều tra bổ sung; tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án; gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử; quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập những người cần xét hỏi tại phiên tòa.
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ bàn về các hoạt động tố tụng trong giai đoạn xét xử và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, đề xuất, kiến nghị.
1. Một số vướng mắc của hoạt động tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Một là, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì sau khi thụ lý vụ án, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải giải quyết ngay việc có áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hay không, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án quyết định (Điều 278). Trước hết, thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để xác định: Trong hồ sơ vụ án, cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát đã áp dụng biện pháp ngăn chặn nào chưa; có cần áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can hay không? Và việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn phải có căn cứ được quy định tại Điều 109 Bộ luật Tố tụng năm 2015 nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa bị can gây khó khăn cho việc xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như khi cần bảo đảm thi hành án. So với quy định về biện pháp ngăn chặn tại Chương VI của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì Bộ luật Tố tụng năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung một số điểm mới về biện pháp ngăn chặn như quy định cụ thể hơn về các biện pháp bắt (Điều 109): Nhằm bảo đảm tính cụ thể trong cách thức quy định về biện pháp bắt người; đồng thời, đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định về các trường hợp bắt, bao gồm: (i) Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (ii) Bắt người phạm tội quả tang; (iii) Bắt người đang bị truy nã; (iv) Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; (v) Bắt người bị yêu cầu dẫn độ. Quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam và rút ngắn thời hạn tạm giam (Điều 119 và Điều 173).
- Trong giai đoạn điều tra: Rút ngắn thời hạn tạm giam 01 tháng đối với tội ít nghiêm trọng; 02 tháng đối với tội rất nghiêm trọng. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho phép gia hạn tạm giam đến khi kết thúc điều tra nhưng để bảo đảm chặt chẽ, tránh lạm dụng, thẩm quyền gia hạn tạm giam trong trường hợp này chỉ thuộc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Trong giai đoạn truy tố: Thời hạn tạm giam tối đa đối với bị can về tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng là 30 ngày; tội rất nghiêm trọng là 45 ngày; tội đặc biệt nghiêm trọng là 60 ngày (Không còn được tính thêm 03 ngày giao cáo trạng và các quyết định tố tụng như Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003).
- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử: Theo quy định tại Điều 177 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và được hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về một số quy định trong phần xét xử sơ thẩm của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Theo đó, thời hạn tạm giam được tính kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và không được quá 45 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và ba tháng mười lăm ngày đối với phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khoản 2 Điều 278 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Như vậy, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì thời hạn tạm giam đối với tội phạm tít nghiêm trọng là 30 ngày, tội nghiêm trọng là 45 ngày, rất nghiêm trọng là 02 tháng và tội đặc biệt nghiêm trọng là 03 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án (chứ không phải kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án như quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003). Đối với vụ án phức tạp thì chánh án có thể quyết định gia hạn thêm 15 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Quy định như vậy là nhằm hạn chế việc lạm dụng việc ra lệnh tạm giam kéo dài ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can, bị cáo và lệnh chồng lệnh khi tại phiên tòa hội đồng xét xử còn ra lệnh tiếp tục tạm giam 45 ngày để đảm bảo thi hành án.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn sửa đổi các quy định về biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú (các điều 121, 122 và 123), quy định chế tài phạt tiền áp dụng đối với người bảo lĩnh nếu để cho bị can, bị cáo bỏ trốn; chỉ quy định đặt tiền, không quy định đặt tài sản; quy định cụ thể nghĩa vụ của người nhận bảo lĩnh và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền, cấm đi khỏi nơi cư trú phải cam đoan; bổ sung thời hạn áp dụng đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền. Theo đó, thời hạn áp dụng các biện pháp này không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; đối với người bị kết án phạt tù thì không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124), để phúc đáp yêu cầu phát hiện và xử lý tội phạm, phù hợp với Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh áp dụng đối với: (i) Người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; (ii) Bị can, bị cáo. Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn bổ sung các biện pháp cưỡng chế (các điều 126, 127, 128, 129 và 130). Trong đó bổ sung thêm biện pháp phong tỏa tài khoản.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vẫn còn một số vướng mắc: Thứ nhất là biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đối với bị can đang tại ngoại, nếu xét thấy không cần áp dụng biện pháp tạm giam thì thẩm phán có thể quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Trong trường hợp này thẩm phán triệu tập bị can đến trụ sở Tòa án để giao lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; yêu cầu bị can làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Đồng thời, với việc ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú thì thẩm phán phải thông báo về việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can cư trú và giao bị can cho chính quyền xã, phường, thị trấn đó để quản lý, theo dõi bị can. Hiện nay, do không có hướng dẫn thống nhất nên qua theo dõi thực tiễn giải quyết án tại các Tòa án địa phương thì thấy mỗi thẩm phán thực hiện khác nhau về việc viết giấy cam đoan, có thẩm phán yêu cầu bị can phải về công an xã nơi bị can cư trú xác nhận vào giấy cam đoan rồi nộp lại cho Tòa án, nhưng có thẩm phán không yêu cầu (vì Luật không quy định nên không buộc phải làm). Về thời hạn ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, theo quy định tại khoản 4 Điều 123, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không được quá thời hạn xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Vấn đề vướng mắc phát sinh là, ở giai đoạn truy tố Viện kiểm sát ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can đến ngày 25/6/2018, nhưng ngày 20/6/2018 Viện kiểm sát đã chuyển hồ sơ cho Tòa án để thụ lý. Vậy thì thời hạn ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của bị can tính từ ngày nào? Ngày Tòa án thụ lý vụ án là ngày 20/6/2018 hay ngày hết lệnh của Viện kiểm sát đã ra lệnh trước đó là ngày 25/6/2018. Thực tiễn, có thẩm phán ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tính từ ngày thụ lý vụ án nhưng cũng có thẩm phán ra lệnh tính từ ngày hết lệnh của Viện kiểm sát đã ra trước đó. Thấy rằng, đối với thời hạn tạm giam thì có thể áp dụng tinh thần hướng dẫn của Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để tính thời hạn tạm giam là kể từ ngày tiếp theo ngày tạm giam cuối cùng của lệnh tạm giam trước đó và không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trừ đi thời hạn bị can bị tạm giam, kể từ ngày thụ lý vụ án (tức là trừ đi thời hạn tạm giam của Viện kiểm sát đang còn khi Tòa án thụ lý vụ án). Tuy nhiên, đối với lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú thì giải quyết thế nào? Có tính trừ đi thời hạn bị can đã bị áp dụng theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Viện kiểm sát kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án giống như lệnh tạm giam hay không? Hay vẫn ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án mà nếu ra lệnh kể từ ngày thụ lý vụ án thì dẫn đến hệ lỵ là lệnh chồng lệnh ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can; trong thời hạn nhất định bị can phải bị áp dụng hai lệnh cùng lúc. Hiện nay chưa có hướng dẫn của hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao nên các thẩm phán thường áp dụng không thống nhất, điều này phần nào ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, mặc dù về bản chất thì bị cáo vẫn được tại ngoại. Theo chúng tôi, đối với giấy cam đoan thì không cần phải yêu cầu bị can về địa phương xác nhận; bởi vì cùng với việc ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú thì thẩm phán đã ra thông báo về việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú để thông báo cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can cư trú và giao bị can cho chính quyền xã, phường, thị trấn đó để quản lý, theo dõi bị can. Về thời hạn ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của bị can theo chúng tôi cần tính như thời hạn tạm giam, tức là trừ đi thời hạn bị can đã bị áp dụng theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Viện kiểm sát kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can.
Hai là, triệu tập người chứng kiến và vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung
Theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì diện người tham gia tố tụng được mở rộng hơn so với quy định tại Chương IV của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, trong đó có người chứng kiến (Điều 67) là một quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuy nhiên, do chưa có hướng dẫn những đối tượng nào thì được làm người chứng kiến và khi nào thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát được đưa họ vào với tư cách là người chứng kiến. Bởi vì, tại khoản 1 Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này”. Thực tiễn, trong quá trình điều tra, truy tố các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đưa người tham gia tố tụng với tư cách là người chứng kiến còn nhiều bất cập và gây khó khăn cho công tác xét xử. Ví dụ, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2018/TLST-HS ngày 01/03 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Q có nội dung như sau: Nguyễn Thị A sau khi vào chợ thì ghé vào quầy của chị B để mua quần áo, trong lúc lựa quần áo để ý thấy một túi xách để trên ghế được phủ áo khoát lên trên và tranh thủ lúc chị B đang bán hàng cho khách, Nguyễn Thị A lén lút lấy túi xách đi ra khỏi quầy. Một lúc sau, chị B phát hiện mất túi xách đuổi theo A, khi đuổi được khoảng 500 m thì gặp A và lục trong bao nilon A đang mang trên người thấy có túi xách của mình nên lấy lại quay trở về quầy và để A đi. Trên đường quay về, do có người bảo bắt A lại để báo Công an nên lúc này chị B đuổi theo qua một ngã ba thì gặp A đang ngồi hút thuốc và B yêu cầu mọi người giữ A lại báo công an. A bị tạm giam để điều tra, truy tố. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố, A không thừa nhận hành vi của mình vì A cho rằng A không có lấy túi xách của B nên A không hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng và A không chịu ký các biên bản, không nhận kết luận điều tra, bản cáo trạng và các văn bản tố tụng khác. Mặc dù, qua đối chất, nhận dạng người, vật chứng vụ án, những người tham gia tố tụng khác đều khẳng định A là người trực tiếp lấy túi xách của B, chỉ có duy nhất A không nhận tội và cho rằng mình bị oan. Và để thực hiện được các hoạt động tố tụng của mình, cơ quan điều tra, điều tra viên đã đưa những người đang bị tạm giữ, tạm giam, trong đó có người đang tạm giam là bị cáo đã bị xét xử trong một vụ án khác và anh nuôi trong Nhà tạm giữ vào làm người chứng kiến khi ghi biên bản, hỏi cung và khi nhận các lệnh, quyết định… cho A; đồng thời, kiểm sát viên khi giao cáo trạng cho A nhưng A không ký biên bản giao nhận nên kiểm sát viên đưa anh Trần Văn C là chuyên viên Viện kiểm sát đi cùng làm người chứng kiến. Sau khi chuyển hồ sơ cho Tòa án, thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ điểm d khoản 1 Điều 280, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung vì cho rằng việc cơ quan điều tra và Kiểm sát viên đưa những người đang bị tạm giữ, tạm giam trong nhà tạm giữ và chuyên viên Viện kiểm sát vào làm người chứng kiến trong vụ án là không khách quan và xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị can. Tuy nhiên, Viện kiểm sát không chấp nhận quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án vì Viện kiểm sát khẳng định đã thực hiện đúng và đầy đủ các trình tự, thủ tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và trong nhà tạm giữ thì những người đó được làm người chứng kiến.
Qua nội dung vụ án, chúng tôi thấy có một số vấn đề cần phải trao đổi như sau:
Thứ nhất, nếu như Tòa án đưa vụ án ra xét xử thì vấn đề triệu tập người chứng kiến là người đang bị tạm giữ, tạm giam như thế nào? Trong khi có người tạm giam đang là bị cáo đã bị xét xử trong vụ án khác nếu đến ngày mở phiên tòa, bị cáo đã chuyển trại thì việc trích xuất đến tham gia phiên tòa gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ hai, liệu rằng những người đang bị tạm giữ, tạm giam và anh nuôi trong nhà tạm giữ có thể khách quan trong khi làm người chứng kiến hay không? Chuyên viên của Viện kiểm sát làm người chứng kiến có đúng hay không? Mặc dù quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Trong khi, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì một trong những người không được làm người chứng kiến đó là: “Có lý do khác cho thấy người đó không khách quan” (điểm d khoản 2 Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Vậy lý do khác là lý do nào thì hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể và chỉ mang tính cảm tính dựa trên ý chí chủ quan của mỗi điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và của các cơ quan tiến hành tố tụng nên dẫn đến không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật gây khó khăn cho các hoạt động tố tụng. Về người tiến hành tố tụng, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 34 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người tiến hành tố tụng gồm: Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên và kiểm tra viên. Như vậy, chuyên viên Viện kiểm sát không phải là người tiến hành tố tụng nên không thuộc trường hợp không được làm người chứng kiến theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Vì điểm a khoản 2 Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định phải là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà người có thẩm quyền thì trước hết họ phải là người tiến hành tố tụng, nếu không phải là người tiến hành tố tụng thì họ không thể có thẩm quyền được.
Thứ ba, qua nghiên cứu Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố Tụng hình sự về trả hồ sơ điều tra bổ sung, khoản 1 Điều 6 quy định: Khi có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung: Trong đó có quy định: Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung (điểm q khoản 1 Điều 6). Như vậy, việc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với trường hợp trên có thuộc những trường hợp khác hay không?.
2. Một số kiến nghị, đề xuất
Một là, nhằm áp dụng được thống nhất tại các Tòa án địa phương, Tòa án nhân dân tối cao cần cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể trường hợp áp dụng Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để giải quyết các vướng mắc trên, đồng thời ban hành bổ sung các biểu mẫu quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại Tòa án nhân dân, bởi hiện nay các biểu mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 chỉ có biểu mẫu hướng dẫn về biện pháp tạm giam.
Hai là, về thời hạn ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của bị can thì theo chúng tôi Tòa án tối cao cần hướng dẫn theo hướng: Cần tính như thời hạn tạm giam, tức là trừ đi thời hạn bị can đã bị áp dụng theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Viện kiểm sát kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can.
Thứ ba, đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao sớm có văn bản hướng dẫn Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về người chứng kiến và điểm d Điều này để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng được thống nhất.
Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam