Luật Giám định tư pháp số 13/2012/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Qua hơn 05 năm thực hiện, Luật Giám định tư pháp đã đi vào đời sống xã hội, từng bước nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành ở trung ương và địa phương về ý nghĩa, vai trò của công tác giám định tư pháp, tạo hanh lang pháp lý thuận lợi cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định về giám định tư pháp ở các lĩnh vực, tiếp tục hoàn thiện thiết chế tổ chức, cơ chế hoạt động và quản lý nhà nước về giám định tư pháp; đưa công tác này ngày càng đi vào nền nếp, có hiệu quả, phục vụ tốt hơn cho hoạt động tố tụng.
Hiện nay, tổng số giám định viên tư pháp ở các lĩnh vực là 6.154 người; số người giám định tư pháp theo vụ việc được lựa chọn, công bố là 1.630 người trong các lĩnh vực xây dựng, tài chính, ngân hàng, tài nguyên môi trường, giao thông vận tải... Đội ngũ giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc có sự phát triển ngày càng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Tất cả giám định viên tư pháp được bổ nhiệm đều có trình độ đại học trở lên, đối với giám định viên pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự phải có chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ giám định trước khi được bổ nhiệm, nhiều giám định viên tư pháp có trình độ sau đại học.
Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần đối của đội ngũ giám định viên tư pháp đã được Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương quan tâm, chăm lo. Hiện nay, giám định viên tư pháp trong 03 lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự được hưởng phụ cấp hệ số 0,3/mức lương cơ sở/tháng, theo quy định tại Thông tư số 02/2009/TT-BTP ngày 17/9/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; giám định viên pháp y, pháp y tâm thần được hưởng chế độ ưu đãi nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập theo quy định của Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 4/7/2011 của Chính phủ.
Hoạt động giám định tư pháp chủ yếu được thực hiện theo trưng cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng. Theo báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, hoạt động giám định tư pháp chủ yếu là được thực hiện theo trưng cầu của cơ quan điều tra trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân, còn lại là trưng cầu giám định của các cấp Tòa án, cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp đã có bước đổi mới quan trọng với việc “phân định” thẩm quyền, trách nhiệm, sự “cộng đồng trách nhiệm” giữa cơ quan đầu mối quản lý nhà nước với các bộ, ngành quản lý lĩnh vực giám định, các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan, tổ chức liên quan tạo sự “tương tác” trong việc giải quyết khó khăn, vướng mắc của hoạt động giám định góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Với vai trò là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý về giám định tư pháp, trong những năm qua Bộ Tư pháp đã tích cực, hoàn thành việc xây dựng, ban hành các văn bản về giám định tư pháp; ban hành tài liệu bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho người giám định tư pháp làm cơ sở để các bộ, ngành, địa phương tổ chức bồi dưỡng phù hợp với đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý; đồng thời nghiên cứu và tham mưu, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền về công tác giám định tư pháp.
Bên cạnh những thuận lợi và những kết quả đã đạt được, qua hơn 05 năm thi hành Luật Giám định tư pháp cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập: (i) Các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Giám định tư pháp được ban hành vẫn còn chưa đầy đủ, chất lượng một số văn bản hướng dẫn thực hiện cũng còn hạn chế, chưa rõ ràng, cụ thể nên khó thực hiện; một số lĩnh vực có nhu cầu giám định ngày càng cao như tài chính, ngân hàng... nhưng không có tổ chức giám định đầu mối chuyên trách dẫn đến việc trưng cầu gặp khó khăn; (ii) Đến nay, cả nước chỉ mới có 01 Văn phòng giám định tư pháp Sài Gòn được thành lập ở lĩnh vực tài chính tại TP. Hồ Chí Minh nhưng hoạt động cũng rất cầm chừng, hạn chế, còn nhiều khó khăn, vướng mắc; (iii) Phần lớn đội ngũ người làm giám định tư pháp tại một số lĩnh vực chưa được các bộ, ngành chuyên quản đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu, chủ yếu dựa vào kiến thức chuyên môn thuần túy để thực hiện giám định, nên còn lúng lúng, khó khăn nhất định khi thực hiện giám định. Các giám định viên kiêm nhiệm thì chủ yếu tập trung vào công tác chuyên môn, không đủ thời gian và điều kiện tập trung vào công tác giám định khi được cử làm giám định, có tâm lý e ngại, không muốn làm giám định vì trách nhiệm pháp lý rất cao, trong khi các điều kiện để thực hiện giám định chưa bảo đảm; nhiều loại việc trong một số lĩnh vực giám định mà địa phương không giám định được như xây dựng, sở hữu trí tuệ, tài chính, ma túy tổng hợp, vật liệu nổ... cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu tổ chức giám định ở cấp trung ương, gây quá tải cho tổ chức đó và làm kéo dài thời gian làm giám định, ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án. (iv) Việc tuyển đầu vào giám định viên hiện nay còn gặp khó khăn; (v) Chế độ đãi ngộ còn nhiều bất cập, do đó rất khó thu hút cán bộ vào ngành; (vi) Các quy định của Luật Giám định tư pháp năm 2012 còn nhiều bất cập, hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng khắc phục những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua, bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với Bộ luật Tố tụng hình sự và các luật có liên quan và đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Lê Thành Long đã ghi nhận những kết quả công tác giám định tư pháp đã đạt được qua hơn 05 năm thực hiện Luật Giám định tư pháp. Theo đó, thể chế ngày càng được hoàn thiện; tổ chức nhân sự được kiện toàn; kinh phí, chế độ cho người làm giám định tăng; nhận thức của các ngành về công tác giám định được nâng cao… Bên cạnh đó, Bộ trưởng cũng chỉ ra những hạn chế, khó khăn trong công tác giám định, trong đó, có những bất cập trong các quy định của Luật hiện hành. Bộ trưởng cũng đề nghị các bộ: Công an, Y tế, Quốc phòng tiếp tục quan tâm, phối hợp thực hiện tốt các đề án về giám định; tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giám định viên. Những tham luận và ý kiến đóng góp của các đại biểu tham dự trong Hội nghị này sẽ được tổng hợp lại là nguồn tài liệu tham khảo quý cho việc sửa Luật trong thời gian tới.