1. Nguyên tắc khởi xướng và chứng minh pháp luật nước ngoài tại Tòa án Anh
1.1. Nguyên tắc chung
Tại Vương quốc Anh, việc giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài cũng đặt ra vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài. Luật nước ngoài cũng nằm ngoài sự hiểu biết của Tòa án và các thẩm phán Anh. Do đó, các Tòa án này hoặc là từ chối thẩm quyền khi vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài được đặt ra hoặc áp dụng án lệ để xét xử. Đến giữa thế kỷ 18, xuất phát từ những đòi hỏi trong những tình huống tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo đó áp dụng luật nơi thực hiện hành vi, chính vì vậy luật nước ngoài cần được áp dụng để giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Luật nước ngoài được coi là sự thật khách quan (question of fact)[1]. Mặc dù các nhà làm luật Anh thừa nhận rằng cách phân loại này là không hợp lý trái ngược với trực giác, nhưng các Tòa án Anh vẫn bám sát học thuyết này, vì kết quả của nó được cho là phù hợp và thuyết phục. Trong vụ Mostyn v. Fabrigas 1 Cowp. 161, 174, 98 Eng. Rep. 1021, 1028 (K.B. 1774), thẩm phán Mansfield đưa ra quan điểm: “Cách để biết luật nước ngoài là thừa nhận chúng được chứng minh như là các chứng cứ ...”[2]. Như vậy, luật nước ngoài chỉ được coi như là chứng cứ và do các đương sự phải nêu ra và tự chứng minh. Tòa án không được phép nêu ra và chứng minh luật nước ngoài. Học thuyết chứng cứ được xây dựng bởi thẩm phán Mansfield vẫn được áp dụng ở Anh và nhiều nước thuộc khối thịnh vượng chung cho đến ngày nay.
Theo luật của Anh, việc viện dẫn luật nội dung của các quốc gia khác theo quy tắc xung đột của Anh là chưa đủ để Tòa án áp dụng luật của quốc gia đó[3]. Thay vào đó, nguyên tắc là nếu một bên đương sự muốn dựa vào luật pháp nước ngoài, thì bên đó phải khởi xướng theo cách tương tự như bất kỳ vụ kiện nào khác[4]. Điều này có nghĩa việc chứng minh pháp luật nước ngoài là hoàn toàn tự nguyện[5]. Thẩm phán không có quyền và nghĩa vụ làm điều đó một cách chính thức. Trong một vụ việc tại Anh, mà tranh chấp phát sinh từ hợp đồng có điều khoản luật điều chỉnh rõ ràng có lợi theo luật Hà Lan, tuy nhiên, được quyết định hoàn toàn theo luật nội địa của Anh vì không bên nào viện dẫn luật Hà Lan. Bằng cách cho phép các đương sự chuyển đổi một cách hiệu quả vụ việc xung đột thành một vụ việc trong nước, như Fentiman đã nói, bản thân vụ việc xung đột luật trở thành “một thiết chế tự nguyện của pháp luật”[6].
Học thuyết này có liên quan chặt chẽ với nhận thức truyền thống về vai trò của thẩm phán Anh với tư cách là trọng tài bị hạn chế phân xử tranh chấp giữa các bên trước khi thẩm phán đó biết về các điều khoản mà họ đã tự đặt ra (nguyên tắc đối nghịch. Do đó, thẩm phán phải hoàn toàn dựa vào các bên về tài liệu để quyết định tranh chấp của họ. Chỉ có một số trường hợp ngoại lệ mà Tòa án có thể đề nghị sửa đổi sự khởi xướng của các bên. Hơn nữa, Tòa án sẽ không xem xét các câu hỏi về luật hoặc tiền lệ không được các bên yêu cầu.
1.2. Lẩn tránh pháp luật nước ngoài từ các nguyên đơn
Có rất nhiều lý do tại sao đôi khi các nguyên đơn từ chối khởi xướng áp dụng luật nước ngoài. Một lý do chính có thể là việc khiếu nại theo luật của Anh có lợi hơn cho nguyên đơn hơn là đưa ra theo luật nước ngoài. Ví dụ, trong một tranh chấp liên quan đến các khiếu nại theo hợp đồng, sẽ không có lý do gì để một nguyên đơn viện dẫn luật nước ngoài nếu hợp đồng có hiệu lực theo luật Anh, nhưng có thể vô hiệu theo luật nước ngoài. Hơn nữa, một bên tranh chấp sẽ thường xuyên từ chối viện dẫn luật nước ngoài, nếu lập trường của họ về các vấn đề chính của tranh chấp giống với luật Anh, do đó, làm cho nó có hiệu quả tương đương, nhưng dễ dàng hơn để tiến hành theo luật nội địa của Anh nhưng ngay cả trong những trường hợp có thể có một số lợi thế trong việc viện dẫn luật pháp nước ngoài, chi phí giữ chân nhân chứng, chuyên môn và chi phí bổ sung của luật sư để chuẩn bị bằng chứng và kiểm tra, giám định chéo các chuyên gia có thể lớn hơn.
Thêm vào đó, nội dung của luật mà thẩm phán áp dụng cuối cùng có thể khác về cơ bản so với những gì bên đương sự suy tính. Không chỉ có rủi ro rằng Tòa án có thể thích cách trình bày luật nước ngoài của bên kia, mà Tòa án có thể đưa ra một phiên bản luật nước ngoài, là sự kết hợp giữa lời khai của bị đơn và do đó không làm hài lòng bên nào. Một lý do cuối cùng để tránh áp dụng luật nước ngoài là những khó khăn vốn có trong bản thân xung đột luật ở Anh. Vì nhiều vấn đề về luật quan trọng vẫn chưa được giải quyết, những xung đột ở một mức độ nhất định không thể đoán trước được kết quả của chúng trước các Tòa án Anh. Học thuyết về chứng cứ tạo cơ hội cho các đương sự tránh được điều không thể đoán trước này phát sinh từ việc lựa chọn các quy tắc luật của Anh, ví dụ như trong các trường hợp sai lầm, chi phí và sự bất tiện thực tế mà họ gây ra.
2. Vai trò của các bên đương sự, Tòa án, ý kiến của chuyên gia đối với việc áp dụng pháp luật nước ngoài
2.1. Vai trò của các bên đương sự
Pháp luật nước ngoài không chỉ phải được khởi xướng rõ ràng mà còn phải được các bên chứng minh. Đó là đối với bên dựa vào luật pháp nước ngoài để thiết lập nội dung của mình và lý do chứng minh là tùy thuộc vào bên cáo buộc, trừ khi bên kia thừa nhận điều đó. Nếu luật pháp nước ngoài không được chứng minh cho quyết định của thẩm phán, lex fori sẽ được áp dụng[7].
2.2. Vai trò của Tòa án
Vì các thẩm phán được coi là không biết các sự kiện cho đến khi chúng được chứng minh, các thẩm phán về mặt kỹ thuật không biết gì về luật nước ngoài chưa được chứng minh. Nguyên tắc không biết trước ngăn cản một thẩm phán tiến hành nghiên cứu cá nhân về luật nước ngoài và cam kết các bên chứng minh luật nước ngoài giống như các sự kiện khác. Nếu một chuyên gia nước ngoài chỉ đề cập đến một phần của văn bản pháp luật nước ngoài thì thẩm phán không được đề cập đến những phần khác chưa được đưa vào bằng chứng. Hơn nữa, nếu bằng chứng của một chuyên gia như vậy là không thể tranh cãi thì Tòa án thường buộc phải chấp nhận vì không có thông tin để phản đối.
2.3. Vai trò của các chuyên gia
Theo luật của Anh, một bên không thể chứng minh luật nước ngoài bằng cách chỉ đưa ra bằng chứng về luật nước ngoài, các quyết định của Tòa án, các luận thuyết hoặc các nguồn khác[8]. Ý kiến của các chuyên gia có thẩm quyền luôn được yêu cầu giải thích và diễn giải tài liệu đó mặc dù một chuyên gia có thể viện dẫn tài liệu đó để hỗ trợ bằng chứng của chính mình. Bên kia không bắt buộc phải gọi một chuyên gia, nhưng nếu nội dung của luật nước ngoài bị tranh cãi gay gắt, họ gần như chắc chắn sẽ làm như vậy. Thông thường hai chuyên gia sẽ không đồng ý và sau đó Tòa án sẽ đưa ra phán quyết, bằng cách ưu tiên bằng chứng của chuyên gia này hơn chuyên gia kia hoặc bằng cách chấp nhận các phần bằng chứng của mỗi chuyên gia.
Trường hợp phụ thuộc quá nhiều vào lời khai của các nhân chứng thì việc lựa chọn chuyên gia của các bên là rất quan trọng, có thể phụ thuộc vào khả năng thuyết phục của họ. Tương tự, điều quan trọng là Tòa án phải có hướng dẫn rõ ràng để quyết định chuyên gia nào có thẩm quyền làm chứng về luật nước ngoài. Vấn đề thẩm quyền là trong quyết định của Tòa án. Chuyên gia không cần phải là luật sư nước ngoài; kinh nghiệm thực tế là đặc điểm duy nhất.
Thủ tục chứng minh luật nước ngoài ở một mức độ nào đó được đơn giản hóa bởi Đạo luật Chứng cứ Dân sự 1972. Điều 4 (2) của Đạo luật này quy định rằng, trong trường hợp trước đó Tòa án Anh đã xác định một nghi vấn về luật nước ngoài và khi quyết định trước đó xuất hiện ở dạng phù hợp, thì quyết định đó sẽ được chấp nhận làm bằng chứng để chứng minh luật nước ngoài.
3. Áp dụng pháp luật Anh khi các bên không chứng minh được pháp luật nước ngoài là luật áp dụng
Trong vụ kiện giữa Công ty Xây dựng và Kỹ thuật Ngoài khơi Iran v Dean Investment Holdings SA [2018] EWHC 2759 (Comm), Tòa án cấp cao cho rằng về nguyên tắc, nếu một yêu cầu bồi thường được điều chỉnh bởi luật nước ngoài, nhưng nguyên đơn đã không yêu cầu hoặc chứng minh nội dung của luật đó, Tòa án sẽ áp dụng luật Anh cho đơn kiện.
Quyết định này xác nhận rằng, trong hầu hết các trường hợp, Tòa án sẽ áp dụng luật Anh cho đơn kiện trừ khi nguyên đơn yêu cầu và chứng minh nội dung của luật nước ngoài có liên quan hoặc bị đơn cho thấy rằng sẽ không phù hợp nếu áp dụng luật Anh, ví dụ như việc áp dụng luật Anh sẽ gây ra những bất lợi trong các trường hợp cụ thể. Do đó, bị đơn không thể chỉ đơn thuần khẳng định rằng luật nước ngoài được áp dụng, từ đó, tạo ra gánh nặng cho nguyên đơn trong việc yêu cầu và chứng minh nội dung của luật đó.
Nguyên đơn đưa ra cáo buộc về một hành vi gian lận bị cáo buộc đã gây ra các khoản thanh toán để mua một giàn khoan ngoài khơi, với tổng trị giá 87 triệu USD. Các tuyên bố chống lại bị cáo thứ năm và thứ sáu xuất phát từ các hành vi được cho là diễn ra ở Iran và UAE, gây ra thiệt hại ở Iran. Nguyên đơn không đưa ra bất kỳ sự chứng minh hay thỏa thuận nào về luật của quốc gia nào được áp dụng cho các yêu cầu của mình.
Bị đơn thứ năm và thứ sáu biện hộ rằng các tuyên bố chống lại họ được điều chỉnh bởi luật pháp Iran, nhưng không nhận bất kỳ trường hợp nào về nội dung của luật pháp Iran. Bên bào chữa của họ bảo lưu quyền sửa đổi sau khi tìm kiếm bằng chứng về luật pháp Iran.
Nguyên đơn không phản đối, về nguyên tắc, các tuyên bố của họ được điều chỉnh bởi luật pháp Iran, nhưng họ nói rằng điều này không liên quan vì cả hai bên đều không viện dẫn bất kỳ luật nào của Iran. Người yêu cầu bồi thường dựa trên nguyên tắc thông luật chung, đôi khi được coi là một giả định hiển nhiên của luật Anh, được nêu như Quy tắc 25 (2) trong Dicey, Morris & Collins. Quy tắc 25 nêu rõ: Trong bất kỳ trường hợp nào áp dụng luật nước ngoài, luật phải được bào chữa và chứng minh là sự thật để làm hài lòng thẩm phán bằng chứng cứ chuyên môn hoặc đôi khi bằng một số phương tiện khác. Trong trường hợp không có bằng chứng thỏa đáng về luật nước ngoài, Tòa án sẽ áp dụng luật Anh cho trường hợp như vậy.
Tuy nhiên, Dicey tiếp tục lưu ý rằng có thể có những trường hợp áp dụng luật Anh quá gượng ép hay giả tạo sẽ không phù hợp. Trong trường hợp đó, Tòa án có thể coi một bên đã khởi xướng nhưng không chứng minh được luật nước ngoài là đã không xác lập được vụ việc của mình.
Tại phiên điều trần xem xét trước khi xét xử, câu hỏi đặt ra là liệu các bị đơn có công khai khi cho rằng luật Anh không nên áp dụng mặc nhiên theo Quy tắc 25 (2) hay không. Cụ thể hơn, liệu các bị đơn có thể tranh luận tại phiên tòa và chứng minh các nguyên tắc của luật pháp Iran chi phối các tuyên bố của mình hay không và vì họ không làm như vậy, các yêu cầu bồi thường sẽ thất bại.
Tòa án Tối cao xem xét trước khi xét xử có lợi cho nguyên đơn, xác nhận rằng Quy tắc 25 (2) sẽ được áp dụng tại phiên tòa và các bị đơn không thể tranh cãi ngược lại.
Tóm lại, phân tích của thẩm phán về các nguyên tắc áp dụng như sau[9]:
- Người yêu cầu bồi thường không cần thiết phải dựa vào Quy tắc 25 (2), vì đó là một quy định mặc định và được áp dụng trừ khi có lý do để không áp dụng;
- Trong trường hợp nguyên đơn không cần hay không muốn viện đến luật pháp nước ngoài và có thể đưa ra nguyên nhân đầy đủ và khả thi nếu khiếu nại đó được xác định theo luật của Anh, thì việc xác định khiếu nại theo luật của Anh là “một sự từ chối có lý do trách nhiệm pháp lý” cần được yêu cầu một cách thích đáng;
- Ngay cả khi (về nguyên tắc) luật điều chỉnh khiếu nại có thể là luật nước ngoài, thì việc áp dụng Quy tắc 25 (2) được cho là không phù hợp phải dựa trên các vấn đề cụ thể đối với khiếu nại được đề cập.
Phân tích của thẩm phán được hỗ trợ bởi nhận xét của Arden LJ trong OPO v MLA [2014] EWCA Civ 1277 và Brownlie v Four Seasons Holdings Inc [2015] EWCA Civ 665, khi thẩm phán bày tỏ quan điểm rằng, trong trường hợp không có bằng chứng về luật nước ngoài, nên áp dụng giả định luật nước ngoài giống luật Anh.
4. Liên hệ với Việt Nam
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài nhằm điều chỉnh các quan hệ về dân sự, thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài đòi hỏi sự chính xác và khách quan. Quy định này được thừa nhận trong hầu hết pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Nhìn rộng ra, đây không chỉ là nghĩa vụ pháp lý của một quốc gia mà còn liên quan đến những vấn đề thuộc chủ quyền, lợi ích dân tộc cũng như các quyền của công dân. Mỗi quốc gia chọn cho mình một cách tiếp cận riêng biệt đối với vấn đề này. Chẳng hạn, nghĩa vụ thu thập và xác minh chứng cứ theo luật Anh sẽ thuộc về các bên đương sự trong khi đối với các quốc gia theo truyền thống luật Civil Law trách nhiệm này sẽ thuộc về Tòa án. Các bên đương sự sẽ có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nhưng việc xác định, giải thích, chứng minh chúng vẫn là trách nhiệm chính của cơ quan tư pháp.
Các Tòa án Anh bám sát học thuyết chứng cứ, bởi vì những kết luận của nó được cho là phù hợp và thuyết phục. Sự thiếu hiểu biết của các Tòa án và thẩm phán sẽ được bù đắp bằng cách đưa luật nước ngoài trong cơ chế chứng minh: “Cách để biết luật nước ngoài là thừa nhận chúng được chứng minh là chứng cứ”. Tuy nhiên, ngoại lệ đối với quy tắc này được đưa ra trong quy chế phúc thẩm. Trong khi về cơ bản, tòa phúc thẩm bị ràng buộc bởi các tuyên bố thực tế của tòa cấp dưới, điều này không đúng đối với luật nước ngoài. Do đó, các Tòa án phúc thẩm buộc phải xử lý một phán quyết dựa trên lý do rằng luật nước ngoài đã không được áp dụng một cách chính xác.
Việt Nam không phải là quốc gia theo học thuyết chứng cứ như Anh, tuy nhiên, Việt Nam có thể tham khảo Anh đối với quy định áp dụng pháp luật nước ngoài chỉ khi đương sự khởi xướng và có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến. Nếu đương sự không khởi xướng việc áp dụng pháp luật nước ngoài, Tòa án có quyền mặc nhiên suy đoán là các đương sự chọn pháp luật Việt Nam và Tòa án áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết vụ việc. Bởi vì nếu có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam mà các bên đương sự không khởi xướng sẽ đặt Tòa án nơi được dẫn chiếu đến vào thế bị động, gây khó khăn trong việc xác định nội dung pháp luật và các chi phí phát sinh liên quan. Ngoài ra, cần có cơ chế khuyến khích các cơ quan chức năng tăng cường công tác hợp tác với các nước trong và ngoài khu vực về cung cấp pháp luật nước ngoài và phát huy hiệu quả các hoạt động bổ trợ Tòa án. Để làm tốt công tác này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tòa án và các cơ quan hữu quan để cung cấp kịp thời các văn bản pháp luật, các thông tin liên quan có yếu tố nước ngoài.
Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
143-144; Sass, Am. J. Comp. L. 16 (1968) 335; Hartley, I.C.L.Q. 45.