Cơ sở pháp lý đầu tiên phải kể đến là Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, tiếp đó là sự ra đời của Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán thay thế Nghị định số 48/1998/NĐ-CP. Đến khi Luật Chứng khoán năm 2006 ra đời và được sửa đổi, bổ sung năm 2010 (sau đây gọi là Luật Chứng khoán năm 2006) đã tạo lập khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt động của TTCK, nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với TTCK nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các tổ chức tham gia thị trường, góp phần minh bạch hoá thị trường, đồng thời tạo lập các quy định phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực, đặc biệt đáp ứng được lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tuy nhiên, sau hơn mười năm thực hiện, Luật Chứng khoán năm 2006 đã bộc lộ những hạn chế và thiếu sót trong việc điều chỉnh hoạt động chứng khoán ngày càng chuyên nghiệp, các công cụ đầu tư đa dạng khi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường ngày càng nhiều, đòi hỏi nhu cầu cần phải có cơ chế tổ chức quản lý, vận hành TTCK phù hợp với yêu cầu mới.
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Chứng khoán năm 2019, có hiệu lực ngày 01/01/2021 với nhiều nội dung sửa đổi quan trọng, hứa hẹn sẽ tạo nên cú huých nhằm tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho sự phát triển ổn định, bền vững, minh bạch của TTCK, tạo thuận lợi thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập, góp phần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, sự an toàn của hệ thống tài chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK Việt Nam.
1. Những điểm mới quan trọng của Luật Chứng khoán năm 2019
Sự ra đời của Luật Chứng khoán năm 2019 với nhiều sự thay đổi, điều chỉnh so với các quy định của Luật Chứng khoán năm 2006 thể hiện tính ưu việt ở những khía cạnh quan trọng sau đây:
Một là, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và các quy định cụ thể của Luật Chứng khoán năm 2019 cơ bản đã bao trùm hầu hết các hoạt động về chứng khoán và tổ chức, quản lý TTCK Việt Nam với các nội dung như: Hoạt động chào bán chứng khoán, đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán; quy định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng; nghĩa vụ công bố thông tin của các chủ thể tham gia thị trường; quy định về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại trong hoạt động chứng khoán; quy định về tổ chức và hoạt động của những chủ thể quan trọng trên TTCK Việt Nam (như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam, các quỹ đầu tư chứng khoán, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát...). Việc quy định và điều chỉnh bao quát này của Luật Chứng khoán năm 2019 giúp cho việc hoàn thiện và áp dụng khung pháp lý điều chỉnh hoạt động chứng khoán và TTCK trở nên thuận lợi, thống nhất hơn, đảm bảo tính hiệu lực pháp lý cao, hạn chế được tình trạng quy định rải rác, tản mạn dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định của pháp luật.
Hai là, Luật Chứng khoán năm 2019 đã ghi nhận những công cụ giao dịch mới trên TTCK như chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm, chứng chỉ lưu ký, các loại chứng khoán phái sinh, đặc biệt pháp luật còn quy định mang hướng mở khi ghi nhận chứng khoán còn bao gồm cả các loại chứng khoán khác do Chính phủ quy định. Việc ghi nhận mở rộng định nghĩa về chứng khoán như trên xuất phát từ thực tiễn giao dịch trên TTCK Việt Nam những năm gần đây xuất hiện các công cụ mới như chứng khoán phái sinh, chứng quyền có bảo đảm, là biểu hiện của sự phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Việc bổ sung các công cụ giao dịch mới cho thấy pháp luật chứng khoán Việt Nam đang tiếp thu các thông lệ quốc tế và chuẩn mực chung của pháp luật chứng khoán của các nước phát triển trên thế giới, từ đó góp phần bảo đảm cho TTCK Việt Nam hoạt động đa dạng, minh bạch và chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu huy động vốn trung dài hạn và luân chuyển các nguồn vốn phục vụ sự phát triển của nền kinh tế.
Ba là, Luật Chứng khoán năm 2019 quy định theo hướng đẩy nhanh tiến trình hợp nhất Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội thành Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam, từ đó chức năng tổ chức, vận hành thị trường giao dịch chứng khoán sẽ do Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và các công ty con thực hiện. Các quy định về thành lập, hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con, cơ cấu tổ chức quản lý cùng với các quyền và nghĩa vụ của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là những quy định mới được đề cập tại Chương IV của Luật Chứng khoán năm 2019. Theo Điều 43 Luật Chứng khoán năm 2019, Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật này và Luật Doanh nghiệp, do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, giải thể, mô hình hoạt động, hình thức sở hữu, chức năng, quyền và nghĩa vụ của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và việc thành lập công ty con của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con chịu sự quản lý và giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Mô hình tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán này theo đánh giá của chúng tôi là phù hợp thông lệ quốc tế và tạo tiền đề để hình thành chỉ số chứng khoán duy nhất trên TTCK Việt Nam, thay thế cho việc tồn tại song song nhiều chỉ số như hiện nay như chỉ số VN-Index của Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và chỉ số HNX-Index của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc phân tích, đánh giá thị trường để đưa ra quyết định đầu tư. Từ đó, tạo ra sự thống nhất và chuẩn hóa tiêu chí niêm yết, chế độ báo cáo, công bố thông tin, tiêu chuẩn về thành viên và giao dịch trên TTCK. Đây là bước đi quan trọng hướng tới củng cố và hoàn thiện khuôn khổ quản lý, giám sát đối với toàn bộ TTCK nói riêng và cả thị trường tài chính nói chung phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tế nhu cầu phát triển của Việt Nam.
Bốn là, Luật Chứng khoán năm 2019 quy định khắt khe hơn Luật Chứng khoán năm 2006 về điều kiện để công ty cổ phần trở thành công ty đại chúng, cụ thể công ty cổ phần phải thuộc một trong hai trường hợp: (i) Công ty có vốn điều lệ đã góp từ 30 tỷ đồng trở lên và có tối thiểu là 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải cổ đông lớn nắm giữ; hoặc (ii) Công ty đã thực hiện chào bán thành công cổ phiếu lần đầu ra công chúng thông qua đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo quy định của pháp luật. So với Luật Chứng khoán năm 2006, điều kiện về công ty cổ phần phải có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán đã bị loại bỏ trong Luật Chứng khoán năm 2019; đồng thời, điều kiện mức vốn điều lệ đã góp từ 30 tỷ đồng trở lên theo Luật này thay cho 10 tỷ đồng như trước đây là phù hợp với quy mô phát triển của thị trường hiện nay. Đặc biệt, quy định điều kiện trở thành công ty đại chúng của công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 30 tỷ đồng trở lên phù hợp với tiêu chuẩn niêm yết hiện tại của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, tạo nên tính nhất quán và thống nhất khi phù hợp với các quy định khác tại Luật này đang tiến tới hợp nhất tiêu chuẩn niêm yết của hai Sở giao dịch chứng khoán thành tiêu chuẩn niêm yết thống nhất của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam.
Năm là, Luật Chứng khoán năm 2019 đã có những sửa đổi quan trọng và phù hợp với nhu cầu giao dịch của TTCK về điều kiện chào bán chứng khoán. Cụ thể, Luật chia ra hai trường hợp là chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ, trong khi Luật Chứng khoán năm 2006 chỉ quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng; hơn nữa còn ghi nhận nhiều hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng bao gồm chào bán chứng khoán lần đầu, chào bán thêm cổ phiếu hoặc quyền mua cổ phần và các hình thức khác. Đặc biệt, tại Mục 1 Chương II Luật Chứng khoán năm 2019 đã hướng dẫn về điều kiện chào bán ra công chúng của nhiều loại chứng khoán hơn so với Luật Chứng khoán năm 2006 như cổ phiếu, trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi, chứng chỉ quỹ với các điều kiện chặt chẽ và yêu cầu cao hơn, thiết nghĩ sẽ góp phần đảm bảo chất lượng của chứng khoán được chào bán trên TTCK và hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư. Một điểm quan trọng phải kể đến là, Điều 30 Luật này quy định chào bán chứng khoán riêng lẻ của tổ chức phát hành không phải là công ty đại chúng thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan, tạo ra sự thống nhất, tương thích của hệ thống pháp luật điều chỉnh về chào bán chứng khoán riêng lẻ, tránh tình trạng một vấn đề mà do nhiều luật cùng điều chỉnh. Điểm thay đổi đáng chú ý tiếp theo là quy định về chào bán chứng khoán riêng lẻ, tại khoản 20 Điều 4 định nghĩa chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc chào bán theo một trong các phương thức: (i) Chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; hoặc (ii) chỉ chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, theo đó nội dung “không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc internet” trong Luật Chứng khoán năm 2006 đã được loại bỏ và một trường hợp được thêm vào.
Sáu là, Luật Chứng khoán năm 2019 yêu cầu các công ty đại chúng, công ty niêm yết phải chú trọng và quan tâm hơn đến nghĩa vụ công bố thông tin và vấn đề quản trị công ty theo những nội dung và nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế. Nếu như trước đây vấn đề quản trị công ty chỉ được điều chỉnh ở tầm nghị định, thì hiện nay vấn đề quản trị công ty đã được luật hóa tại Mục 2 Chương III với những quy định về nguyên tắc và nội dung quản trị công ty đại chúng. Những quy định này về cơ bản là phù hợp với thông lệ tốt nhất về quản trị công ty được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có TTCK phát triển. Đối với nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng, công ty niêm yết và các chủ thể khác tham gia TTCK đã được luật hóa bằng một chương trong Luật Chứng khoán 2019 (Chương VIII) thay vì chỉ được điều chỉnh tại Thông tư số 155/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán như trước đó. Các quy định điều chỉnh hoạt động công bố thông tin này hứa hẹn sẽ tăng cường tính công khai, kịp thời của thông tin trên TTCK và thúc đẩy minh bạch hóa thị trường.
Bảy là, Luật Chứng khoán năm 2019 cụ thể hóa các nhiệm vụ, quyền hạn quản lý, giám sát đối với TTCK, phân công phân cấp rõ ràng đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán. Luật Chứng khoán năm 2019 đã bổ sung nhiều quyền hạn hơn, có thể kể đến như: Quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, dữ liệu liên quan đến nội dung kiểm tra, thanh tra; quyền yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cung cấp thông tin liên quan đến giao dịch trên tài khoản của khách hàng đối với các trường hợp có dấu hiệu thực hiện hành vi bị cấm trong hoạt động chứng khoán và TTCK (Điều 130). Bên cạnh đó, Luật Chứng khoán năm 2019 còn quy định cơ chế phối hợp giám sát giữa Ủy ban Chứng khoán Nhà nước với các cơ quan quản lý khác; cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm phối hợp cung cấp thông tin của công ty đại chúng về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, ngừng hoạt động, tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, không hoạt động tại địa chỉ đăng ký; cơ quan thuế có trách nhiệm phối hợp cung cấp thông tin của công ty đại chúng về đăng ký thuế, đóng mã số thuế, mở lại mã số thuế, kết quả xử lý vi phạm pháp luật về thuế, quyết định cưỡng chế nợ thuế (Điều 131) nhằm thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, với cam kết cải cách thủ tục hành chính khi Việt Nam tham gia các Điều ước quốc tế thì đây là những thay đổi tích cực, tiến bộ, phù hợp với tình hình mới.
Tám là, Luật Chứng khoán năm 2019 đã bổ sung nhiều hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động về chứng khoán và TTCK tại Điều 12. So với Luật Chứng khoán năm 2006, thì Luật này đã ghi nhận thêm các hành vi bị nghiêm cấm sau đây: (i) Sử dụng một hoặc nhiều tài khoản giao dịch của mình hoặc của người khác để thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo; (ii) Sử dụng tài khoản, tài sản của khách hàng khi không được khách hàng ủy thác hoặc trái quy định của pháp luật hoặc lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản của khách hàng; (iii) Cho người khác mượn tài khoản để giao dịch chứng khoán, đứng tên sở hữu chứng khoán hộ người khác dẫn đến hành vi thao túng giá chứng khoán. Cùng với đó, Luật Chứng khoán năm 2019 đã nâng mức phạt tiền tối đa đối với xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán. Theo đó, mức phạt tiền tối đa đối với hành vi bị cấm tại khoản 2, khoản 3 Điều 12 là 10 lần khoản thu trái pháp luật đối với tổ chức và 05 lần khoản thu trái pháp luật đối với cá nhân; đối với các hành vi vi phạm khác thì mức phạt tiền tối đa là 03 tỷ đồng đối với tổ chức và 1,5 tỷ đồng đối với cá nhân. Rõ ràng, so với các quy định về xử lý vi phạm đối với hoạt động chứng khoán và TTCK tại các Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ và Nghị định số 145/2016/NĐ-CP ngày 01/11/2016 của Chính phủ, các quy định tại Luật Chứng khoán năm 2019 đã có mức xử lý vi phạm được điều chỉnh tăng nhằm răn đe và hướng tới giảm thiểu các hành vi vi phạm, tăng cường kỷ luật thị trường.
2. Triển khai thi hành Luật Chứng khoán năm 2019
Với những điểm mới quan trọng như trên, thiết nghĩ sau khi có hiệu lực thi hành, Luật Chứng khoán năm 2019 sẽ góp phần tạo ra cú huých để đem đến diện mạo mới cho hoạt động giao dịch chứng khoán và TTCK Việt Nam, nắm bắt cơ hội được nâng hạng thị trường từ cận biên lên thị trường mới nổi với nhiều cơ hội đón nhận các dòng vốn đầu tư lớn trên thế giới, mở rộng thị trường tài chính tiền tệ quốc gia. Để thực thi hiệu quả Luật Chứng khoán năm 2019, các cơ quan có liên quan cần xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật về chứng khoán và TTCK. Theo Quyết định số 24/QĐ-TTg ngày 06/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, bộ luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 8 (Quyết định số 24/QĐ-TTg), dự kiến sẽ có 07 nghị định và 11 thông tư hướng dẫn Luật Chứng khoán năm 2019. Cụ thể, đến nay, Chính phủ đã ban hành một số nghị định (quy định về các nội dung như: Chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế; xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán; chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh), Bộ Tài chính đã ban hành một số thông tư (quy định về các nội dung như: Chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính; giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán; công bố thông tin trên thị trường chứng khoán; hoạt động của văn phòng đại diện, chi nhánh công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam; hoạt động và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán…) để hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán năm 2019.
Để triển khai thi hành có hiệu quả Luật Chứng khoán năm 2019, cần thực hiện một số công việc cụ thể như sau:
Thứ nhất, cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam, Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan, các cơ quan báo chí, truyền thông để thực hiện hoạt động tuyên truyền tới doanh nghiệp, nhà đầu tư để họ nắm bắt và áp dụng quy định mới của Luật Chứng khoán năm 2019.
Thứ hai, mỗi cơ quan kể trên cần kịp thời sửa đổi, bổ sung và ban hành mới quy trình, quy chế, hướng dẫn phù hợp với các quy định tại Luật Chứng khoán năm 2019, các văn bản hướng dẫn cũng như đáp ứng yêu cầu thực tiễn; đồng thời, nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp với nhau và với các cơ quan, đơn vị liên quan để thực thi các thẩm quyền, nội dung hoạt động phối hợp giám sát giữa các cơ quan quản lý được quy định tại Luật Chứng khoán năm 2019.
Thứ ba, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam cần triển khai các công việc liên quan đến chuyển đổi sang mô hình Tổng công ty Lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam; Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội phối hợp xây dựng kế hoạch để triển khai quá trình hợp nhất thành Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam theo quy định mới.
Thứ tư, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam, Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội tiếp tục triển khai hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin theo hướng hiện đại hóa, đáp ứng quy mô giao dịch và sự phát triển của TTCK. Từ những hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu được hình thành, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần xây dựng hệ thống ứng dụng có quy mô, cốt lõi toàn ngành và mang tính tích hợp cao nhằm phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK.
Công ty cổ phần Phát triển bất động sản Phát Đạt
1. Lê Vũ Nam, Luật Chứng khoán năm 2019 và việc hoàn thiện khung pháp lý về thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 10 (410), tháng 5/2020, tr. 42 - 45.
2. Tổ chức Tài chính quốc tế IFC (2010), Cẩm nang quản trị công ty, Nxb. Nông nghiệp, tr. 6 - 32.
3. Trần Thị Thu Hương, Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán, Tạp chí Tài chính kỳ 01, tháng 03/2020.
4. Vụ Pháp chế - Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14: Kỳ vọng nâng tầm thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ 01, tháng 03/2020.