Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (VAHS) là một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Việc giải quyết vấn đề dân sự ngay trong quá trình giải quyết VAHS có ý nghĩa bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác, nhanh gọn, đỡ tốn kém về thời gian, công sức, bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan khi bị tội phạm xâm hại, giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng tránh được việc tiến hành các hoạt động trùng lặp không cần thiết, tức là xem xét hai lần các tình tiết của cùng một hành vi vi phạm pháp luật hình sự và vi phạm pháp luật dân sự[1]. Tuy nhiên, các quy định hiện hành về việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS vẫn còn nhiều hạn chế, đôi khi dẫn đến những mâu thuẫn giữa các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Từ đó, thực tế áp dụng thường ưu tiên các quy định của tố tụng hình sự mà xâm phạm đến các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, cụ thể là nguyên tắc về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, nguyên tắc về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự và nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự[2].
1. Sự mâu thuẫn của việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự với một số nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự
1.1. Nguyên tắc về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về nguyên tắc này như sau:
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”.
Như vậy, quyền quyết định, tự định đoạt việc khởi kiện, yêu cầu của đương sự được thể hiện thông qua đơn khởi kiện, đơn yêu cầu là đòi hỏi tiên quyết để Tòa án có thể tiến hành thụ lý giải quyết yêu cầu về dân sự trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, khi đặt trong bối cảnh tố tụng hình sự, hiện không có quy định nào đòi hỏi việc bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (người liên quan) phải có đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu để Tòa án có thể thụ lý giải quyết vấn đề dân sự cùng lúc với VAHS.
Có quan điểm cho rằng, khi một VAHS có vấn đề dân sự cần phải giải quyết, có nghĩa là ngay từ lúc khởi tố VAHS thì vấn đề dân sự trong VAHS đó đương nhiên được xem xét và giải quyết mà không cần phải khởi kiện riêng bằng một thủ tục khác nữa. Như vậy, vấn đề dân sự trong VAHS sẽ được xem xét và giải quyết ngay từ giai đoạn khởi tố VAHS, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự không cần phải có bất cứ thủ tục nào, kể cả thủ tục phải có yêu cầu khởi kiện của các chủ thể có quyền khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự[3]. Vấn đề đặt ra đối với ý kiến này là, nếu không có yêu cầu khởi kiện thì làm thế nào để xác định rằng có vấn đề dân sự cần phải giải quyết? Cần phải hiểu rằng, yêu cầu khởi kiện là căn cứ trước tiên, là tiền đề để xác định có hay không vấn đề dân sự cần giải quyết và phạm vi của vấn đề dân sự cần giải quyết đó là như thế nào. Do đó, nhất thiết phải có yêu cầu khởi kiện để có thể xác định được vấn đề dân sự cần giải quyết trong VAHS, dù yêu cầu đó có thể không được thể hiện bằng hình thức đơn khởi kiện/đơn yêu cầu.
Thực tiễn thi hành cho thấy, khi một tội phạm xảy ra và xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người liên quan, ngay từ thời điểm tiến hành điều tra thì điều tra viên luôn thực hiện việc lấy lời khai các chủ thể này. Trong trường hợp các chủ thể có yêu cầu về vấn đề dân sự, điều tra viên sẽ ghi nhận vào biên bản ghi lời khai và biên bản này được xem như là có giá trị tương đương với đơn khởi kiện/yêu cầu trong tố tụng dân sự. Từ đó, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ thực hiện việc giải quyết các yêu cầu về dân sự này của bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Ngược lại, nếu các chủ thể trả lời rằng không có yêu cầu về dân sự[4] thì sẽ không phát sinh vấn đề dân sự cần phải giải quyết trong VAHS.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng này lại nảy sinh mâu thuẫn đối với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Trong tố tụng dân sự, quyền quyết định và tự định đoạt được đương sự thực hiện một cách chủ động. Ngược lại, tố tụng hình sự lại không quy định về thủ tục yêu cầu khởi kiện vấn đề dân sự trong VAHS và thực tiễn thi hành lại có xu hướng biến quyền quyết định, tự định đoạt thành một quyền thực hiện thụ động, để cơ quan tiến hành tố tụng gợi ý, hỏi.
Một mặt, nguyên tắc quyền quyết định, tự định đoạt nhằm bảo đảm về quyền quyết định của đương sự trong việc giải quyết vấn đề dân sự giữa người dân với nhau. Mặt khác, nó còn bảo đảm tính chịu trách nhiệm và ý thức của đương sự khi tiến hành khởi kiện. Chính vì yêu cầu khởi kiện mang tính thụ động này, nhiều trường hợp, bị hại, nguyên đơn dân sự, người liên quan sau khi có yêu cầu giải quyết phần dân sự tại biên bản ghi lời khai, họ có tâm lý “phó mặc” mọi chuyện cho cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc bởi vì giá trị tài sản nhỏ nên họ cũng không tích cực trong việc tham gia tố tụng.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nếu nguyên đơn vắng mặt lần thứ hai mà không có lý do chính đáng thì được xem như từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án sẽ đình chỉ vụ án, nghĩa là sự có mặt của nguyên đơn tại phiên tòa là bắt buộc (trừ khi họ có đơn xin xét xử vắng mặt). Tuy nhiên, tại quy định của Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, việc bị hại, nguyên đơn dân sự, người liên quan vắng mặt thì Tòa án vẫn có thể tiếp tục xét xử và nếu việc vắng mặt của họ chỉ gây trở ngại cho việc giải quyết vấn đề dân sự thì có thể tách phần dân sự này ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Quy định của điều luật là chỉ tách phần dân sự ra nếu sự vắng mặt gây “trở ngại”, trong khi đó, trên thực tế, nhiều trường hợp khi bị hại, nguyên đơn dân sự, người liên quan vắng mặt nhưng đã có yêu cầu, lời khai trong quá trình điều tra, truy tố. Trong trường hợp Tòa án xét thấy đủ chứng cứ để chấp nhận yêu cầu dân sự thì Tòa án vẫn tuyên chấp nhận yêu cầu dân sự luôn chứ không tách ra; chỉ khi nào không đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu dân sự thì Tòa án mới tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Có thể thấy, sự vắng mặt của người có yêu cầu dân sự trong vụ án dân sự và trong VAHS dẫn đến hai hệ quả khác nhau. Điều này lại càng làm giảm tính tích cực, chủ động của người yêu cầu dân sự trong VAHS. Từ đó, dẫn đến hệ quả thực tế là trong một số VAHS mà tài sản bị xâm hại có giá trị nhỏ, khi lấy lời khai thì bị hại yêu cầu bồi thường nhưng sau đó có tâm lý bỏ mặc, khi xét xử thì họ không tham gia phiên tòa, đến khi bản án có hiệu lực thì họ cũng không có đơn yêu cầu thi hành án dân sự. Điều này đã kéo dài thủ tục, gây lãng phí, tốn kém thời gian của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xem xét, giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS khi mà người có quyền yêu cầu dân sự không thực hiện quyền quyết định, định đoạt của mình một cách chủ động.
1.2. Nguyên tắc về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh
Khoản 1 Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”.
Hoạt động giải quyết vấn đề dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ sở có sự tranh chấp trong quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau nhưng bình đẳng về địa vị pháp lý mà trong đó có một quy tắc chung cho cả hai bên đương sự: “Người nào đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phải chứng minh”. Theo quy tắc này, mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh những sự kiện, tình tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối của mình, hay nói một cách đơn giản là khẳng định một sự việc gì thì phải chứng minh sự việc ấy. Quy định này xuất phát từ cơ sở khi yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho mình với tư cách là người trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật nội dung có vi phạm hay tranh chấp, đương sự là người hiểu rõ nhất vì sao họ có yêu cầu đó, họ biết được những tình tiết, sự kiện trong vụ việc, do đó, có khả năng cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, về mặt tâm lý, khi đưa ra yêu cầu của mình bao giờ đương sự cũng là người đứng ở thế chủ động, tự nguyện đưa ra những lý lẽ để chứng minh, bênh vực cho quyền lợi của mình. Sự thật là cơ sở của yêu cầu và phản đối của các bên nên các bên sẽ quan tâm và tìm mọi cách để khẳng định sự thật này[5].
Như vậy, trong tố tụng dân sự, chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là nghĩa vụ của bên đưa ra yêu cầu. Nếu áp dụng nguyên tắc này trong việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS thì phía đưa ra yêu cầu về dân sự cũng phải chứng minh cho yêu cầu của mình. Tuy nhiên, khi xem xét các quy định của pháp luật tố tụng hình sự sẽ cho thấy sự mâu thuẫn với nguyên tắc trên của tố tụng dân sự.
Điểm m khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Thông tư liên tịch số 02/2017) quy định: “Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng hình sự mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, như: Chứng cứ để xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức; chứng cứ để xác định trách nhiệm dân sự của bị can, bị cáo và những vấn đề khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật”. Như vậy, trong trường hợp Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố không thu thập được các chứng cứ trên thì Tòa án hoặc Viện kiểm sát có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Có nghĩa là, Thông tư liên tịch số 02/2017 đã giao nghĩa vụ thu thập các chứng cứ để chứng minh phần trách nhiệm dân sự trong VAHS cho các cơ quan tiến hành tố tụng, mà cụ thể là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.
Trong khi đó, Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về những vấn đề phải chứng minh trong VAHS bao gồm: (i) Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; (ii) Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; (iii) Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; (iv) Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; (v) Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; (vi) Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Đồng thời, Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án cũng chỉ ghi nhận trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Như vậy, có thể thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm và nghĩa vụ phải thu thập các chứng cứ để chứng minh tội phạm, mà cụ thể là chứng minh các vấn đề xoay quanh tội phạm được quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Việc Thông tư liên tịch số 02/2017 giao nghĩa vụ thu thập các chứng cứ để chứng minh phần trách nhiệm dân sự trong VAHS cho các cơ quan tiến hành tố tụng là trái với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về các vấn đề cần phải chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự. Đồng thời, quy định của Thông tư liên tịch số 02/2017 cũng trái với nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự là đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Điều này cũng làm tăng thêm tính thụ động trong việc tham gia tố tụng để giải quyết phần dân sự của người có yêu cầu và dẫn đến rủi ro xâm phạm đến một nguyên tắc khác trong tố tụng dân sự nói riêng, trong pháp luật Việt Nam nói chung là nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật.
1.3. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 khẳng định, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được cụ thể hóa tại Điều 8 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật... Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án”. Như vậy, trong hoạt động giải quyết về tranh chấp dân sự thì các đương sự phải bình đẳng với nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có nghĩa vụ cơ bản nhất là nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình. Thế nhưng, Thông tư liên tịch số 02/2017 giao nghĩa vụ thu thập chứng cứ chứng minh trách nhiệm dân sự của bị can, bị cáo cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chứ không phải là người có yêu cầu dân sự trong VAHS đã khiến cho phía có yêu cầu nhận được sự hỗ trợ chủ động và tích cực từ cơ quan tiến hành tố tụng, là các cơ quan quyền lực nhà nước, trong việc chứng minh cho yêu cầu của mình[6]. Trong chiều ngược lại, phía người có nghĩa vụ dân sự, thông thường là bị can, bị cáo, lại không có bất kỳ sự trợ giúp nào từ phía cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thu thập chứng cứ chứng minh để phản đối yêu cầu dân sự. Từ đó, nảy sinh sự bất bình đẳng về vị thế, quyền và nghĩa vụ giữa hai chủ thể yêu cầu (thường là bị hại, nguyên đơn dân sự, người liên quan) và bị yêu cầu (thường là bị can, bị cáo) trong việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS. Có thể suy đoán, các quy định dưới luật là nhằm bảo đảm quyền lợi của bị hại khi bị xâm phạm bởi các hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Tuy nhiên, trong vấn đề hình sự thì bị can, bị cáo phải chịu bất lợi hơn về quyền và nghĩa vụ so với bị hại, nhưng trong vấn đề dân sự thì bị can, bị cáo và bị hại phải bình đẳng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Để bảo đảm quyền lợi của bị hại thì theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đương sự có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ việc thu thập chứng cứ nếu tự họ không thể thu thập được (khoản 2, khoản 3 Điều 106). Vậy nên, việc ràng buộc trách nhiệm chứng minh ngay từ đầu cho cơ quan tiến hành tố tụng là không cần thiết, bởi nếu cần thì phía bị hại có thể yêu cầu Tòa án hỗ trợ việc thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình.
2. Kiến nghị
Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS là một trong các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các quy định thực hiện được xây dựng xoay quanh nguyên tắc này vẫn còn thiếu và “mơ hồ”, nhiều quy định dẫn đến sự xâm phạm trực tiếp các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự và Hiến pháp. Do đó, tác giả kiến nghị cần phải bổ sung, sửa đổi những nội dung sau nhằm hoàn thiện các quy định về giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS:
Thứ nhất, cần bổ sung một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS. Theo đó, cần bổ sung quy định về yêu cầu khởi kiện của người có yêu cầu. Đồng thời, cần quy định về việc người có yêu cầu khởi kiện dân sự trong VAHS nếu vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa hình sự mà không có lý do thì Hội đồng xét xử phải tách việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS chứ không được giải quyết luôn dù có đầy đủ chứng cứ trong hồ sơ vụ án; tương tự như trong vụ án dân sự, nếu nguyên đơn vắng mặt lần thứ hai mà không có lý do chính đáng thì được xem như từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án sẽ đình chỉ vụ án. Các quy định này bảo đảm nguyên tắc về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, bảo đảm tính tích cực, chủ động trong việc tham gia tố tụng của người có yêu cầu.
Thứ hai, cần phải điều chỉnh quy định tại điểm m khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017 theo hướng loại bỏ việc trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu thiếu các chứng cứ chứng minh trách nhiệm dân sự của bị can, bị cáo. Bởi lẽ, nguyên tắc tố tụng dân sự quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc bên có yêu cầu chứ không phải của cơ quan tiến hành tố tụng và nguyên tắc của tố tụng hình sự cũng quy định nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng là chứng minh tội phạm thông qua các vấn đề cần chứng minh tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, mà trong đó không có vấn đề về trách nhiệm dân sự. Việc điều chỉnh này vừa bảo đảm nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh và nguyên tắc bình đẳng giữa các đương sự trong tố tụng dân sự, vừa bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật vụ án và các vấn đề cần chứng minh trong tố tụng hình sự.
Có ý kiến viện dẫn điểm a mục 3 phần I Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong VAHS (Công văn số 121/2003) cho rằng, Công văn số 121/2003 hướng dẫn vấn đề dân sự trong vụ án có liên quan đến việc định tội hay định khung hình phạt đối với bị cáo là một phần không thể tách rời trong VAHS và phải được giải quyết đồng thời với VAHS, nên trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng và đây là căn cứ để trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nếu chưa được làm rõ trách nhiệm dân sự. Do đó, cần sửa đổi quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng bổ sung vấn đề chứng minh thứ 7 là “Những vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm”[7].
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, Công văn số 121/2003 chỉ là văn bản hướng dẫn xét xử chứ không phải văn bản quy phạm pháp luật và Thông tư liên tịch số 02/2017 là văn bản quy phạm pháp luật có thứ bậc pháp lý thấp hơn luật. Do đó, nếu văn bản dưới luật mà trái với văn bản luật thì cần điều chỉnh văn bản dưới luật mà không thể suy luận ngược lại là điều chỉnh văn bản luật cho phù hợp với văn bản dưới luật.
Mặt khác, thực chất, các vấn đề dân sự không thể tách rời việc định tội hay định khung hình phạt thì nó cũng là các vấn đề cần chứng minh trong VAHS. Một tình tiết, chứng cứ có thể dùng làm tình tiết cho cả hai trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, như việc định giá tài sản bị mất trộm vừa là cơ sở của định tội, định khung trong trách nhiệm hình sự, vừa là cơ sở của việc bồi thường thiệt hại về tài sản[8]. Lẽ tất nhiên, cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh tình tiết này với tư cách là một vấn đề cần chứng minh trong VAHS, tức là đã nằm trong sáu vấn đề được quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không cần thiết phải tiếp tục ghi nhận lại các tình tiết trên thành “Những vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm” để tránh trùng lặp.
Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
ThS. Nguyễn Phương Anh
Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp