Đối với ngành Tư pháp và lĩnh vực lý lịch tư pháp, vấn đề cải cách, hoàn thiện thể chế luôn được ưu tiên hàng đầu. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) là bước cụ thể hóa rất quan trọng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng đã xác định một trong ba vấn đề trọng tâm là hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Đồng thời, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó xác định: “Chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch...”. Sau hơn 10 năm triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 (sau đây gọi là Luật Lý lịch tư pháp) cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, một số quy định của pháp luật lý lịch tư pháp đã không còn phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành như Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), Luật Thi hành án hình sự năm 2019…
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển và hội nhập mới, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên dữ liệu và kết nối đã đặt ra nhu cầu cấp bách là xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Trong bài viết này, tác giả đưa ra góc nhìn về một số hạn chế, vướng mắc giữa pháp luật về lý lịch tư pháp với các quy định của pháp luật khác có liên quan cũng như hạn chế, vướng mắc trong tổ chức thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp, từ đó, đề xuất, kiến nghị hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực lý lịch tư pháp.
1. Một số hạn chế, vướng mắc giữa pháp luật về lý lịch tư pháp với các quy định của pháp luật khác có liên quan
Luật Lý lịch tư pháp được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/2010. Để triển khai thi hành Luật, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp (Nghị định số 111/2010/NĐ-CP); Bộ Tư pháp đã ban hành các thông tư trong lĩnh vực lý lịch tư pháp gồm: Thông tư số 13/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 về việc ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu và mẫu sổ lý lịch tư pháp, được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Thông tư số 16/2013/TT-BTP ngày 11/11/2013 (Thông tư số 13/2011/TT-BTP), Thông tư số 06/2013/TT-BTP ngày 06/02/2013 hướng dẫn việc quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (Thông tư số 06/2013/TT-BTP), Thông tư số 06/2024/TT-BTP ngày 19/6/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu và mẫu sổ lý lịch tư pháp; Bộ Tư pháp cũng liên tịch ban hành Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp (Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP). Tuy nhiên, sau hơn 13 năm triển khai thi hành, pháp luật về lý lịch tư pháp đã bộc lộ một số vướng mắc so với các quy định của pháp luật khác có liên quan, cụ thể như sau:
Một là, về những trường hợp bị kết án nhưng không bị coi là có án tích: khoản 1 Điều 2 Luật Lý lịch tư pháp quy định, lý lịch tư pháp là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 69, Điều 107 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định 05 trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích: (i) người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị kết án không kể về tội gì; (ii) người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; (iii) người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; (iv) người đã thành niên bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng; (v) người được miễn hình phạt. Do đó, vấn đề ở đây là pháp luật về lý lịch tư pháp có đặt ra yêu cầu cần quản lý thông tin lý lịch tư pháp của 05 đối tượng nêu trên hay không.
Hai là, về pháp nhân thương mại phạm tội và xóa án tích đối với pháp nhân thương mại phạm tội: Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có nhiều quy định về pháp nhân thương mại phạm tội, xóa án tích đối với pháp nhân thương mại phạm tội nhưng Luật Lý lịch tư pháp chưa có quy định về lý lịch tư pháp cho pháp nhân thương mại phạm tội cũng như xóa án tích đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về điều kiện đương nhiên được xóa án tích nhưng chỉ áp dụng với đối tượng là cá nhân.
Ba là, về thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp: Điều 48 Luật Lý lịch tư pháp quy định thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp đối với trường hợp phải xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích là không quá 15 ngày. Điều 369 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thủ tục xóa án tích là “05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự”. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, thời hạn thực hiện xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích thường kéo dài hơn 15 ngày, có những trường hợp kéo dài cả vài tháng; đặc biệt, việc xác minh thông tin án tích có trước ngày 01/7/2010 tại các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, thi hành án… gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp thông tin không đầy đủ; thông tin bị mất, thất lạc, nhiều cơ quan không còn lưu giữ được thông tin nên trả lời chậm trễ hoặc không trả lời đề nghị tra cứu xác minh của Sở Tư pháp. Sở Tư pháp đã thực hiện nhiều phương thức xác minh khác nhau (công văn, xác minh trực tiếp, điện thoại, fax...), dù đã quá thời hạn nhưng vẫn không có thông tin. Nguyên nhân chủ yếu là các thông tin này đã quá lâu, việc sáp nhập địa giới hành chính, chuyển trụ sở nên ảnh hưởng công tác lưu trữ của một số cơ quan. Thực tế này dẫn đến khó khăn, lúng túng cho cơ quan có thẩm quyền cấp Phiếu lý lịch tư pháp trong việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Do đó, việc áp dụng thời hạn xóa án tích “05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự” là “điều không tưởng” đối với chính các cơ quan có thẩm quyền cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Bốn là, về các nguồn thông tin liên quan đến quá trình thi hành án và việc lập lý lịch tư pháp của pháp nhân thương mại phạm tội: Luật Lý lịch tư pháp chưa có quy định về các nguồn thông tin liên quan đến quá trình thi hành án và việc lập lý lịch tư pháp của pháp nhân thương mại phạm tội. Trong khi đó, Chương XI Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định thi hành án đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
Năm là, về nhiệm vụ của cơ quan Công an trong công tác lý lịch tư pháp: Điều 18 Luật Lý lịch tư pháp không quy định nhiệm vụ của cơ quan Công an trong việc cung cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo và các hình phạt bổ sung mà giao cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện cấp theo quy định tại Điều 21 Luật Lý lịch tư pháp. Trong khi đó, Điều 107, Điều 125, Điều 129 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 giao cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt cấm cư trú; án phạt tước một số quyền công dân; án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định có nhiệm vụ gửi giấy chứng nhận cho Sở Tư pháp nơi cơ quan có trụ sở. Điều 18 Luật Lý lịch tư pháp không quy định nhiệm vụ của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh trong việc cung cấp lý lịch tư pháp về án tích. Tuy nhiên, Điều 46 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định: trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt tù có nhiệm vụ gửi giấy chứng nhận cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia. Khoản 2 Điều 18 Luật Lý lịch tư pháp quy định: cơ quan xuất nhập cảnh thuộc Bộ Công an có nhiệm vụ gửi thông báo về việc thi hành hình phạt trục xuất cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia. Trong khi đó, Điều 123 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định: cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh phải thông báo việc thi hành án phạt trục xuất cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia.
Sáu là, về thời hạn cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của cơ quan Công an: Luật Lý lịch tư pháp quy định thời hạn các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, thi hành án Bộ Quốc phòng, thi hành án dân sự gửi thông tin lý lịch tư pháp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp là 10 ngày (Điều 16, Điều 17, Điều 18, Điều 19, Điều 20, Điều 37). Trong khi đó, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định các cơ quan có trách nhiệm gửi thông tin cho Sở Tư pháp trong thời hạn 03 ngày làm việc hoặc 05 ngày làm việc hoặc 07 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định (Điều 24, Điều 37, Điều 38, Điều 39, Điều 56, Điều 59, Điều 65, Điều 77, Điều 84, Điều 85, Điều 90, Điều 95, Điều 96,...).
Bảy là, về tổ chức của cơ quan Tòa án trong việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp: Luật Lý lịch tư pháp (Điều 16, Điều 37) quy định Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án đã ra quyết định có nhiệm vụ cung cấp bản án có hiệu lực pháp luật và các quyết định có liên quan cho Sở Tư pháp nơi Tòa án có trụ sở. Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024, Tòa án nhân dân cấp cao được thành lập ở 03 khu vực. Tòa án nhân dân tối cao không còn nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; một phần thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao được chuyển cho Tòa án nhân dân cấp cao (thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; xét xử phúc thẩm); Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm, nhiệm vụ này chuyển giao cho Tòa án nhân dân cấp cao. Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP cũng chưa sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của Tòa án phù hợp với thẩm quyền xét xử theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024.
Tám là, về trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp: Điều 17 Luật Lý lịch tư pháp quy định Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm vụ cung cấp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia bản sao trích lục bản án, trích lục án tích của công dân Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, cơ cấu, tổ chức cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát đã có sự thay đổi, theo đó, thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở 03 khu vực và thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đã được chuyển giao cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Chín là, về loại thông tin do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp: Điều 20 Luật Lý lịch tư pháp quy định cơ quan thi hành án dân sự có nhiệm vụ cung cấp 04 loại văn bản là nguồn thông tin lý lịch tư pháp về án tích. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, Thông tư số 13/2011/TT-BTP xác định thêm 02 loại văn bản do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp là quyết định ủy thác thi hành án dân sự và quyết định thu hồi quyết định về thi hành án. Tuy nhiên, ngoài những văn bản trên, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp nhận được thêm một số loại văn bản do các cơ quan thi hành án dân sự cung cấp như: quyết định thi hành án (kèm theo biên lai của cơ quan thi hành án dân sự), quyết định thi hành án chủ động với nội dung trả lại cho đương sự các tài sản,...
Điều 20 Luật Lý lịch tư pháp quy định cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm cung cấp văn bản thông báo kết thúc thi hành án cho Sở Tư pháp. Trong khi đó, Điều 52, Điều 53 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Điều 37 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ) quy định chỉ khi có yêu cầu của đương sự hoặc thân nhân của họ thì cơ quan thi hành án dân sự mới cấp giấy xác nhận kết quả thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự không chủ động cung cấp giấy xác nhận kết quả thi hành án.
Điều 21 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án hình sự. Trong khi đó, Luật Lý lịch tư pháp (Điều 16, Điều 37) quy định Tòa án có nhiệm vụ cung cấp 13 loại văn bản. Để đáp ứng yêu cầu của thực tế, Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP, Thông tư số 06/2013/TT-BTP và Thông tư số 13/2011/TT-BTP xác định thêm 05 loại văn bản là nguồn thông tin lý lịch tư pháp về án tích do Tòa án cung cấp, cụ thể như: quyết định rút ngắn thời gian thử thách án treo trong trường hợp người bị kết án được rút ngắn thời gian thử thách án treo; quyết định đình chỉ việc chấp hành án phạt tù trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành án phạt tù chết; quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù chết theo quy định; quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm; quyết định ủy thác thi hành án hình sự. Trên thực tế, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp còn nhận được một số loại văn bản do Tòa án cung cấp, cụ thể như: thông báo về việc hết thời hạn hoãn chấp hành án phạt tù, thông báo về việc hết thời hạn tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, thông báo đính chính bản án hình sự, thông báo sửa chữa bản án; quyết định trả tự do cho bị cáo, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, quyết định không chấp nhận miễn chấp hành hình phạt tù, quyết định không chấp nhận rút ngắn thời gian thử thách của án treo, quyết định hủy quyết định thi hành án phạt tù, quyết định về việc xét đơn xin ân giảm án tử hình. Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP cũng chưa được sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với trách nhiệm cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của cơ quan Công an hiện nay theo quy định của Luật Thi hành án hình sự, đặc biệt trong việc thi hành án treo.
Mười là, về giấy tờ chứng minh nhân thân trong hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp: theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Lý lịch tư pháp, hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp phải có hộ chiếu của người được cấp Phiếu. Tại khoản 3 Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 quy định: “Giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế là loại giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của một nước cấp cho người không quốc tịch đang cư trú tại nước đó và được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chấp thuận”. Do đó, bên cạnh hộ chiếu, pháp luật về lý lịch tư pháp cũng cần công nhận “giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế là một loại giấy tờ nhân thân hợp pháp của người nước ngoài (người không quốc tịch) khi thực hiện yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp”.
Mười một là, về trường hợp người bị kết án được dẫn độ để thi hành án: điểm b khoản 2 Điều 26 Luật Lý lịch tư pháp quy định, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia lập và lưu giữ lý lịch tư pháp trong trường hợp người bị kết án được dẫn độ để thi hành án hoặc được chuyển giao để chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, “dẫn độ là việc một nước chuyển giao cho nước khác người có hành vi phạm tội hoặc người bị kết án hình sự đang có mặt trên lãnh thổ nước mình để nước được chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người đó”. Như vậy, khi có bản án hình sự được xét xử thì theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Lý lịch tư pháp, Sở Tư pháp có thẩm quyền thực hiện lập lý lịch tư pháp.
Mười hai là, về chia sẻ, kết nối giữa cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp với các cơ sở dữ liệu có liên quan khác: trong bối cảnh thực hiện chủ trương chuyển đổi số, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản liên quan đến chuyển đổi số như Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06); Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 09/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp (Chỉ thị số 23/CT-TTg); Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 11/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp; Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/05/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025 (Nghị quyết số 68/NQ-CP); Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử (Nghị định số 45/2020/NĐ-CP); Nghị định số 42/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng (Nghị định số 42/2022/NĐ-CP);…
Đề án 06 đặt ra yêu cầu: “Triển khai hiệu quả việc kết nối, chia sẻ giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành theo Quyết định số 1911/QĐ-TTg ngày 15/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ góp phần làm giàu dữ liệu dân cư”; chuyển đổi phương thức thực hiện các thủ tục hành chính từ trực tiếp sang thực hiện trên môi trường điện tử (yêu cầu tái cấu trúc quy trình, áp dụng dịch vụ công trực tuyến; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính; khai thác, sử dụng thông tin sẵn có trong Cơ sở dữ liệu về dân cư…), cũng như yêu cầu kết nối, chia sẻ, khai thác dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành để phục vụ giải quyết thủ tục hành chính theo hướng khai thác sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu, không yêu cầu công dân xuất trình giấy tờ, tài liệu, thông tin đã được lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính. Nghị định số 45/2020/NĐ-CP và Nghị định số 42/2022/NĐ-CP đặt ra yêu cầu phải điện tử hóa các biểu mẫu phục vụ việc giải quyết thủ tục hành chính, cũng như số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính. Trong khi đó, pháp luật về lý lịch tư pháp chưa quy định đủ về vấn đề này, ngay cả Nghị định số 111/2010/NĐ-CP cũng mới chỉ quy định cung cấp thông tin giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu khác.
Chỉ thị số 23/CT-TTg giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và các cơ quan liên quan “phân quyền cho Sở Tư pháp khai thác, tra cứu Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia để phục vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp nhằm tăng tính chủ động, chịu trách nhiệm, giảm thời gian, chi phí thực hiện”. Trong khi đó, Nghị định số 111/2010/NĐ-CP chưa quy định nội dung này.
2. Một số hạn chế, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
Thứ nhất, về trách nhiệm của cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Khoản 4 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”. Khoản 1 Điều 369 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự thì cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp là họ không có án tích”. Thời gian qua, thực hiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về trách nhiệm của cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp, các Sở Tư pháp gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người có yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Hầu hết, các trường hợp yêu cầu cấp Phiếu có án tích trước ngày 01/7/2010 tại các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, thi hành án… gặp không ít khó khăn trong tra cứu, xác minh do các cơ quan hiện nay không còn lưu giữ được hồ sơ; hồ sơ lưu giữ không đầy đủ; thông tin quá mờ, đã hư hỏng; tình trạng thông tin giữa chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của người đã từng bị kết án với bản án có sự khác biệt. Kết quả tra cứu thường rơi vào tình trạng cơ quan không trả lời hoặc trả lời “không có thông tin”, do đó, Sở Tư pháp không có căn cứ để xác định tình trạng án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Một số trường hợp án có từ quá lâu, Sở Tư pháp không có đủ dữ liệu để xác định người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hay chưa hoặc vấn đề bồi thường dân sự hai bên tự thỏa thuận với nhau, không thông qua cơ quan thi hành án dân sự. Để có cơ sở giải quyết, Sở Tư pháp phải đồng thời phối hợp xác minh tại nhiều cơ quan, dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết, gây bức xúc cho công dân và áp lực đối với công chức giải quyết hồ sơ.
Thứ hai, về công tác phối hợp cung cấp thông tin lý lịch tư pháp.
Việc các cơ quan cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp chủ yếu thực hiện bằng phương thức gửi các bản sao hoặc bản gốc các quyết định, bản án, giấy chứng nhận chứa thông tin lý lịch tư pháp qua đường bưu điện. Điều này gây không ít tốn kém về kinh phí và thời gian. Việc gửi giấy tờ và lưu trữ thông tin bằng giấy có thể dẫn đến việc các loại giấy tờ này bị thất lạc hoặc mất, từ đó dẫn đến Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp bị thiếu sót, không đầy đủ, không bảo đảm tối đa trong việc trợ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đồng thời, việc cập nhật, bảo quản thông tin lý lịch tư pháp bằng thủ công gây ra những trở ngại, khó khăn không nhỏ trong việc lưu trữ hồ sơ, cập nhật thông tin lý lịch tư pháp.
Thứ ba, thời hạn giải quyết thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp chưa thống nhất giữa Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật.
Điều 48 Luật Lý lịch tư pháp quy định thời gian giải quyết thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp là “ngày”. Tuy nhiên, thời hạn thực hiện việc tra cứu thông tin lý lịch tư pháp quy định tại các điều 25, 26, 27 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP lại quy định là “ngày làm việc”. Đồng thời, Điều 5, Điều 12, khoản 2 Điều 21, Điều 22, khoản 2 Điều 24, điểm c khoản 1, điểm b khoản 3, khoản 4 Điều 25 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định thời hạn phối hợp cung cấp thông tin, phối hợp xác minh là “ngày làm việc”. Từ đó phát sinh bất cập, khó khăn là thời hạn xác minh, cung cấp thông tin kéo dài hơn so với thời hạn giải quyết thủ tục quy định tại Luật Lý lịch tư pháp; không thể trả kết quả đúng hạn khi thời gian giải quyết hồ sơ trùng vào ngày nghỉ lễ, tết kéo dài.
Thứ tư, công tác lưu trữ hồ sơ cấp Phiếu lý lịch tư pháp bằng giấy chưa thực sự phù hợp với điều kiện hiện tại.
Trong hơn 13 năm thực hiện Luật Lý lịch tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và 63 Sở Tư pháp đã lưu trữ rất nhiều hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp bằng giấy. Khối lượng lớn hồ sơ này đang được lưu trữ tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và 63 Sở Tư pháp. Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư số 10/2022/TT-BNV ngày 19/12/2022 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định thời hạn bảo quản tài liệu và Nghị định số 01/2013/NĐ-CP ngày 03/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lưu trữ đã quy định giao “cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm quy định thời hạn bảo quản tài liệu chuyên môn nghiệp vụ sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ Nội vụ; tổ chức việc lựa chọn tài liệu lưu trữ có giá trị bảo quản vĩnh viễn đã đến hạn nộp lưu và giao nộp vào Lưu trữ lịch sử có thẩm quyền theo quy định của Luật Lưu trữ” (khoản 2 Điều 15). Tuy nhiên, Bộ Tư pháp mới chỉ ban hành Quyết định quy định thời hạn bảo quản hồ sơ giải quyết các vụ việc trong hoạt động quản lý chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp chứ không áp dụng cho toàn quốc. Chính việc lưu trữ số lượng lớn hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp với nhiều giấy tờ kèm theo trong thời gian dài gây ra tình trạng quá tải cho nhiều địa phương, lãng phí thời gian, nhân lực và kinh phí, nhiều Sở Tư pháp không bố trí được kho lưu trữ khối lượng hồ sơ này. Trong khi đó, quy định về lưu trữ hồ sơ điện tử đã được quy định tại Luật Giao dịch điện tử năm 2023 (Điều 13 - Hình thức lưu trữ thông điệp dữ liệu), Nghị định số 45/2020/NĐ-CP (Điều 17 - Lưu trữ hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính điện tử), Thông tư số 01/2023/TT-VPCP ngày 05/4/2023 của Văn phòng Chính phủ quy định một số nội dung và biện pháp thi hành trong số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính và thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử. Do đó, đã đến lúc chúng ta cần thay đổi tư duy và cách thực hiện đối với việc lưu trữ hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp bằng điện tử.
Thứ năm, quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 hiện nay vẫn đang bị lạm dụng.
Luật Lý lịch tư pháp quy định có 02 loại Phiếu lý lịch tư pháp được cấp là Phiếu lý lịch tư pháp số 1 và Phiếu lý lịch tư pháp số 2. Khác với Phiếu lý lịch tư pháp số 1, Phiếu lý lịch tư pháp số 2 thể hiện cả những án tích đã được xóa và chỉ cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử và cấp theo yêu cầu của cá nhân để người đó biết được nội dung về lý lịch tư pháp của mình. Tuy nhiên, từ năm 2012 đến nay, tình trạng lạm dụng yêu cầu cá nhân phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 ngày càng gia tăng. Thực tế giải quyết yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho thấy, cá nhân yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 nhiều khi không xuất phát từ yêu cầu muốn biết về nội dung lý lịch tư pháp của mình mà do xuất phát từ yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, chủ yếu để bổ túc hồ sơ xin thị thực nhập cảnh, kết hôn, xuất khẩu lao động... tại cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài; xin việc làm, cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam; bổ túc hồ sơ xin giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. Việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 cho cá nhân gây tốn kém, phát sinh nhiều chi phí, thời gian, thủ tục trong việc hoàn thiện hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp, đặc biệt đối với công dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc, học tập tại nước ngoài. Thực trạng này đã ảnh hưởng tới quyền được pháp luật bảo đảm bí mật cá nhân theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự của Nhà nước ta, ảnh hưởng đến việc tái hòa nhập cộng đồng của người bị kết án, đặc biệt là những người đã được xóa án tích. Mặc dù ngày 11/6/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 498/QĐ-TTg phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp và hiện nay, các bộ, ngành đang khẩn trương triển khai các nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định nêu trên nhưng về lâu dài, khi nghiên cứu sửa đổi Luật Lý lịch tư pháp, do đó, cần nghiên cứu, tính đến phương án bỏ quy định về thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 cho cá nhân.
Thứ sáu, mô hình Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hai cấp đã bộc lộ những hạn chế nhất định.
Luật Lý lịch tư pháp quy định xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hai cấp tại Sở Tư pháp và Bộ Tư pháp đã bộc lộ những bất cập và lãng phí nguồn lực, thiếu sự kết nối nên có trường hợp thiếu nhất quán về thông tin. Bên cạnh đó, mặc dù các cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin lý lịch tư pháp về án tích đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ nhưng tình trạng chậm gửi hoặc không gửi đúng thời hạn vẫn còn xảy ra, dẫn đến Cơ sở dữ liệu không còn đầy đủ thông tin kịp thời. Do hạn chế nguồn lực con người và kinh phí nên hiện vẫn tồn tại các bản án, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng gửi đến chưa được điện tử hóa, đưa vào Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp để khai thác hiệu quả.
3. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về lý lịch tư pháp trong thời gian tới
Hoàn thiện thể chế có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung và sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó nói riêng. Thể chế tốt sẽ thúc đẩy sự phát triển của đất nước, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày nay, trong xu thế phát triển kinh tế toàn cầu, lý lịch tư pháp ngày càng đóng vai trò quan trọng để quản lý nhà nước, nâng cao chỉ số cạnh tranh của quốc gia. Từ những hạn chế, vướng mắc được phân tích, tác giả có một số kiến nghị hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực lý lịch tư pháp như sau:
Một là, sửa đổi Luật Lý lịch tư pháp để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các bộ luật, luật khác có liên quan.
Sửa đổi Luật Lý lịch tư pháp cần tập trung vào một số nội dung sau: (i) sửa đổi quy định về nguồn thông tin lý lịch tư pháp và nhiệm vụ của các cơ quan trong cung cấp thông tin nhằm xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp để phù hợp hơn với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Thi hành án hình sự năm 2019,…; (ii) quy định bảo đảm thực hiện chế định đương nhiên được xóa án tích của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Riêng đối với chế định xóa án tích, nên chăng bổ sung một quy định mới liên quan đến cấp Phiếu lý lịch tư pháp trong trường hợp quá thời hạn tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp để “gỡ rối” cho các Sở Tư pháp thời gian qua, có thể bổ sung theo hướng trường hợp đã quá thời hạn tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật nhưng các cơ quan có thẩm quyền không có văn bản trả lời hoặc có văn bản trả lời về việc không có thông tin về tình trạng án tích của người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp thực hiện cấp Phiếu lý lịch tư pháp và xác nhận là không có án tích nếu các kết quả tra cứu, xác minh thông tin cho thấy không có thông tin về cá nhân bị kết án bởi bản án có hiệu lực pháp luật. Việc xác nhận tình trạng án tích của người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp căn cứ vào các thông tin sau: kết quả tra cứu tại Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp; các thông tin lý lịch tư pháp về án tích có liên quan đến người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp; bản cam kết về tình trạng án tích của người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Hai là, bỏ quy định về cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2, đồng thời bổ sung quy định về cung cấp thông tin lý lịch tư pháp theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Để giải quyết tình trạng lạm dụng Phiếu lý lịch tư pháp số 2 hiện nay, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và bí mật đời tư của cá nhân, không làm ảnh hưởng tới ý nghĩa nhân đạo của chế định xóa án tích, Luật Lý lịch tư pháp cần sửa đổi, bỏ quy định về cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 tại khoản 2 Điều 41, Điều 43 và Điều 46. Đồng thời, để hỗ trợ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng và đáp ứng yêu cầu của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội cần có thông tin của cá nhân theo quy định của pháp luật có liên quan, Luật cần bổ sung quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; trách nhiệm của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp trong việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của cá nhân.
Ba là, đổi mới mô hình xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.
Trong bối cảnh mới với những yêu cầu, đòi hỏi cao hơn trong quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, cải cách hành chính, cùng sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và để phù hợp với xu thế chung của quốc tế, cần xây dựng mô hình Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tập trung, thống nhất tại Bộ Tư pháp để kết nối, chia sẻ với Trung tâm dữ liệu quốc gia theo tinh thần Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 30/10/2023 của Chính phủ phê duyệt Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia, đồng thời là kho dữ liệu thống nhất để Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp khai thác thông tin, phục vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp và cung cấp thông tin lý lịch tư pháp.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp, ưu tiên cấp Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh hoặc được gửi vào Ứng dụng định danh quốc gia hoặc phương tiện điện tử khác; ưu tiên sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp điện tử trong các giao dịch để phục vụ cho việc kết nối, chia sẻ, tái sử dụng kết quả giải quyết thủ tục hành chính; thực hiện lưu trữ hồ sơ cấp Phiếu lý lịch tư pháp điện tử.
Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lý lịch tư pháp, trong đó ưu tiên chia sẻ, kết nối thông tin giữa Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu có liên quan khác; từng bước chuẩn hóa thông tin, hạ tầng kỹ thuật sẵn sàng cho việc chia sẻ thông tin điện tử giữa các cơ quan có liên quan; thực hiện lưu trữ thông tin, hồ sơ cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên môi trường điện tử phù hợp với tinh thần chuyển đổi số của Chính phủ.
ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp
Ảnh: internet