1. Khái quát về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội (TNXH) hiện nay vẫn đang là một khái niệm còn mới mẻ ở Việt Nam. Trên thực tế, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về TNXH của doanh nghiệp. Tuy nhiên, định nghĩa khái quát nhất là cách hiểu của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB), theo đó, TNXH của doanh nghiệp (CSR) được hiểu là cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng,… theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội.
TNXH của doanh nghiệp bao gồm nhiều khía cạnh liên quan đến ứng xử của doanh nghiệp đối với các chủ thể và đối tượng có liên quan trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, từ người sản xuất, tiếp thị, tiêu thụ, tiêu dùng đến các nhà cung ứng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ; từ đội ngũ cán bộ, nhân viên cho đến các cổ đông của doanh nghiệp. Trong đó có cả trách nhiệm về bảo vệ tài nguyên, môi trường, mà thực chất đó cũng là có trách nhiệm với lợi ích của cộng đồng xã hội, bao gồm cả những hoạt động nhân đạo, từ thiện, hoạt động đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước…
1.2. Quan niệm sai lầm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trên thực tế, hiện nay vẫn còn có những quan niệm, cách hiểu chưa chính xác, chưa đầy đủ về TNXH của doanh nghiệp, cụ thể:
- Quan niệm cho rằng, TNXH của doanh nghiệp nói riêng dùng để chỉ hoạt động liên quan đến làm từ thiện: Quan niệm này rất phổ biến. Đây là cách hiểu truyền thống, theo đó, thực hiện TNXH là tham gia hoạt động giải quyết các vấn đề xã hội mang tính từ thiện, nhân đạo. Quan niệm này chưa đầy đủ và thiếu chính xác, vì: Thứ nhất, nó chỉ đề cập đến một loại hoạt động hướng ngoại của doanh nghiệp, nhưng trên thực tế, khi thực hiện TNXH của mình, doanh nghiệp không chỉ hướng ra bên ngoài mà còn vì chính mục tiêu lợi ích, giá trị của bản thân; thứ hai, có những doanh nghiệp mượn danh làm từ thiện như là một hình thức quảng cáo cho thương hiệu của mình.
- Quan niệm cho rằng, TNXH của doanh nghiệp là để “đánh bóng” tên tuổi: Rất nhiều doanh nghiệp thực hiện TNXH của doanh nghiệp là do đối tác yêu cầu hoặc cần thu hút các nhà đầu tư, quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp để có thêm hợp đồng kinh doanh. Việc làm như vậy chỉ có ý nghĩa tức thời và đôi khi hiệu ứng ngược. Yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện TNXH nằm ở sự tự nhận thức và sự chủ động của chủ thể doanh nghiệp chứ không phải trông chờ vào sự tác động từ bên ngoài. Chừng nào doanh nghiệp chưa nhận thức được TNXH của mình có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thì chừng đó doanh nghiệp còn hành động một cách đối phó, nhiều khi là “đánh bóng” tên tuổi.
- Quan niệm cho rằng, TNXH của doanh nghiệp là một chi phí chứ không phải sự đầu tư: TNXH không phải là một hoạt động thứ yếu, doanh nghiệp có muốn thực hiện hay không mà là hoạt động song hành cùng với hoạt động sản xuất - kinh doanh, là một hoạt động tất yếu doanh nghiệp phải thực hiện ngay từ khi ra đời, nó được kiến tạo trên nền tảng của quan hệ lợi ích sao cho có lợi cho cả doanh nghiệp và xã hội. Hoạt động TNXH không phải là chi phí, mà là yếu tố thúc đẩy, góp phần tạo nên sự phát triển của chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện TNXH gián tiếp tạo ra môi trường, điều kiện tồn tại, phát triển cho chính bản thân mình.
- Quan niệm cho rằng, TNXH của doanh nghiệp là hành vi đạo đức của cá nhân một người lãnh đạo doanh nghiệp: TNXH vừa là một trong những thuộc tính vận động, vừa là một trong những phương thức tồn tại của doanh nghiệp. Vì vậy, TNXH của doanh nghiệp cần được hiểu là trách nhiệm tự thân, xuất phát từ nhu cầu tồn tại, phát triển của doanh nghiệp, chứ không chỉ là trách nhiệm muốn thì thực hiện, không muốn thì thôi hoặc có điều kiện thì làm, không có điều kiện thì không làm. Điều cốt lõi trong việc thực hiện TNXH là mỗi doanh nghiệp phải tự nhận thức và quyết định hành vi của mình để doanh nghiệp có được lợi ích trong kinh doanh, hướng tới lợi ích xã hội chứ không phải do sự ép buộc từ bên ngoài.
1.3. Phân biệt và trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp
Trong lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo 02 nghĩa tích cực và tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, khái niệm “trách nhiệm” có nghĩa là chức trách, công việc được giao, bao hàm cả quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định. Ở khía cạnh tiêu cực, “trách nhiệm” được hiểu là hậu quả bất lợi (sự phản ứng mang tính trừng phạt của Nhà nước) mà cá nhân, tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã quy định trong các quy phạm pháp luật.
- Dưới góc độ pháp luật: TNXH của doanh nghiệp có thể được nhìn nhận như một dạng đặc biệt của trách nhiệm pháp lý tích cực. Trách nhiệm đó đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng được những mong đợi, kỳ vọng của xã hội và thực hiện được cam kết của mình đem lại lợi ích tốt nhất cho tất cả các bên có lợi ích liên quan, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo đáp ứng được sự tuân thủ các quy định pháp luật cơ bản. Từ đó, khái niệm TNXH của doanh nghiệp được hình thành có thể thấy là sự kết hợp giữa việc doanh nghiệp phải đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật và vượt ra hơn nữa là những giá trị đạo đức và kỳ vọng của xã hội, cộng đồng. Tuy nhiên, TNXH của doanh nghiệp do bản chất là những cam kết tự nguyện của doanh nghiệp nên tuyệt nhiên không thể là pháp luật, do đó, không thể đánh đồng TNXH của doanh nghiệp với trách nhiệm pháp lý được. Vì thế, có thể thấy, TNXH của doanh nghiệp chính là sự kết hợp giữa việc doanh nghiệp một mặt phải tuân thủ những trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định và đồng thời là tự nguyện cam kết của doanh nghiệp để thực hiện những giá trị cao hơn trách nhiệm pháp lý tối thiểu.
- Về cơ sở phát sinh: Trách nhiệm pháp lý thông thường hay trách nhiệm pháp lý tiêu cực thường phát sinh khi xuất hiện những điều kiện do pháp luật quy định. Cơ sở phát sinh trách nhiệm pháp lý tiêu cực là những vi phạm pháp luật ở phạm vi, mức độ và lĩnh vực khác nhau. Trong khi đó, cơ sở phát sinh TNXH của doanh nghiệp thì không như vậy, về cơ bản, TNXH là một loại trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội và mang tính tự nguyện. Vì thế, nó gần như phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể, để quyết định thực hiện hay không thực hiện TNXH.
- Về tính đảm bảo, cưỡng chế thi hành: TNXH của doanh nghiệp do một phần nội dung chính là cam kết tự nguyện của doanh nghiệp nên chưa có tính cưỡng chế thi hành cao. Đối với trách nhiệm pháp lý, khi có hành vi vi phạm pháp luật thì căn cứ vào các quy định của pháp luật, việc thực hiện trách nhiệm mang tính bắt buộc và chủ thể nếu vi phạm trách nhiệm sẽ phải gánh chịu chế tài hợp lý. Còn đối với TNXH, ở góc độ những cam kết tự nguyện, do vượt ra ngoài phạm vi khuôn khổ của trách nhiệm pháp lý nên việc đảm bảo tính cưỡng chế thi hành là không tồn tại, có chăng chỉ là trông chờ vào sự tự nguyện của chủ thể có trách nhiệm.
Qua phân tích bản chất pháp lý của TNXH của doanh nghiệp có thể thấy, ranh giới giữa TNXH và trách nhiệm pháp lý là rất mong manh và khó phân định, giữa chúng có những nét chung và đồng thời có những điểm riêng. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, TNHX là một khái niệm rộng hơn và bao hàm cả trách nhiệm pháp lý. Doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện tốt TNXH khi đã thực hiện tốt trách nhiệm pháp lý. Mặt khác, để thực hiện tốt trách nhiệm pháp lý thì doanh nghiệp cần phải có ý thức về TNXH.
2. Nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
TNXH của doanh nghiệp là một hiện tượng xã hội, tồn tại tất yếu khách quan trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp và là một thuộc tính vốn có của doanh nghiệp. Bản chất của hiện tượng TNXH của doanh nghiệp gắn liền với quá trình vận động, phát triển của doanh nghiệp, của xã hội và các nhân tố tác động đến quá trình đó. Các vị thế của doanh nghiệp sẽ tương ứng với mối quan hệ của doanh nghiệp: (i) Với tư cách là thiết chế kinh tế thuộc cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp có mối quan hệ với kinh tế thị trường; (ii) Với tư cách là thực thể xã hội, doanh nghiệp có mối quan hệ với môi trường tự nhiên; (iii) Với tư cách là chủ thể trong xã hội, doanh nghiệp có mối quan hệ với các chủ thể khác trong xã hội. Ở mỗi vị thế, doanh nghiệp có TNXH khác nhau.
2.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với vị thế là một thiết chế kinh tế
Doanh nghiệp sinh ra và tồn tại với chức năng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội vì mục đích sinh lời. Trong mối quan hệ này, TNXH sẽ bao gồm các trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm với người lao động và trách nhiệm với người tiêu dùng.
- Trách nhiệm đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, bao gồm: Trách nhiệm đóng thuế, đóng góp vào sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội tạo việc làm cho xã hội; trách nhiệm phòng chống tham nhũng.
- Trách nhiệm đối với người lao động, bao gồm: (i) Trách nhiệm nâng cao chất lượng môi trường lao động, cụ thể như: Đảm bảo các về chế độ tiền lương, tiền thưởng, các chế độ phúc lợi, các chế độ khác cho người lao động; trách nhiệm đối với về vấn đề lao động cưỡng bức, việc sử dụng lao động trẻ em, lao động khuyết tật…; trách nhiệm đào tạo và phát triển người lao động; trách nhiệm thành lập và đảm bảo hoạt động của tổ chức độc lập đại diện cho quyền lợi của người lao động. (ii) Trách nhiệm nâng cao chất lượng sống của người lao động, cụ thể như: Đảm bảo các điều kiện làm việc, an toàn sức khỏe nghề nghiệp, an toàn vệ sinh lao động.
- Trách nhiệm với người tiêu dùng, bao gồm: Không sản xuất, kinh doanh hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng ảnh hưởng đến người tiêu dùng; trách nhiệm sản phẩm (là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng).
2.2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể xã hội - trách nhiệm với môi trường
Trách nhiệm bảo vệ môi trường là một yếu tố không thể thiếu cấu thành TNXH của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tồn tại như một thực thể trong xã hội, do đó, để tồn tại, thực thể ấy không thể không có những tác động vào môi trường tự nhiên. Tình trạng khai khác khoáng sản bừa bãi làm cho tài nguyên quốc gia kiệt quệ; hiện tượng xả khí thải, nước thải chưa xử lý ra môi trường của các doanh nghiệp gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, hủy diệt môi trường sống là những hành vi không mang tính TNXH. Doanh nghiệp phải thực hiện tốt pháp luật của quốc gia và quốc tế về môi trường. Trách nhiệm môi trường thể hiện qua những hoạt động cụ thể như: Tuân thủ pháp luật, yêu cầu, tiêu chuẩn môi trường; dự báo tác hại có thể xảy ra với môi trường, xây dựng phương án, kế hoạch và lập báo cáo định kỳ với cơ quan quản lý của nhà nước và trên phương tiện thông tin đại chúng; cam kết không khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường (môi trường đất, nước, không khí, tiếng ồn…); sử dụng công nghệ, trang thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất đúng quy định của pháp luật và theo hướng thân thiện với môi trường; có quy trình xử lý nước thải, chất thải đúng quy định, không xả chất thải rắn, chất thải độc hại hủy hoại môi trường; tham gia hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái bằng các hoạt động tái đầu tư các dự án bảo vệ môi trường trong cộng đồng dân cư…
2.3. của doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể xã hội - trách nhiệm đối với cộng đồng
Với tư cách chủ thể xã hội, doanh nghiệp là một tế bào, thành tố tạo thành xã hội, vận động trong sự vận động của xã hội. Chủ thể doanh nghiệp có mối quan hệ phức tạp với các chủ thể xã hội khác trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp này, TNXH của doanh nghiệp là việc tham gia giải quyết các vấn đề xã hội nhằm đảm bảo an sinh xã hội, công bằng xã hội, an ninh quốc phòng. Do đó, trước những vấn đề của xã hội, doanh nghiệp không thể đứng ngoài và luôn phải hướng tới mục tiêu là vì cộng đồng và san sẻ gánh nặng với cộng đồng. Doanh nghiệp có trách nhiệm dành một phần lợi nhuận đóng góp vào các hoạt động trợ giúp cộng đồng một cách thường xuyên. Trách nhiệm này được thể hiện thông qua một số hoạt động cụ thể như: Đóng góp xây dựng quốc phòng an ninh; đóng góp phát triển cơ sở hạ tầng cho địa phương; tham gia các hoạt động từ thiện; xóa đói giảm nghèo; đầu tư vào giáo dục, tài trợ các hoạt động văn hóa, thể thao của địa phương, xã hội; trợ giúp cho những đối tượng bảo trợ, cần được hỗ trợ (người gặp thiên tai, người già, trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn,…).
3. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với việc bảm đảm quyền con người
Theo Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về doanh nghiệp và quyền con người[1] (sau đây gọi tắt là Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc), mọi doanh nghiệp đều có trách nhiệm phải tôn trọng quyền con người bằng những phương thức cụ thể như:
Thứ nhất, doanh nghiệp cần có cam kết, tuyên bố chính sách về quyền con người. Bước quan trọng đầu tiên để thực hiện việc tôn trọng quyền con người, doanh nghiệp cần thông qua một bản tuyên bố về mặt chính sách (cam kết chính sách). Bản tuyên bố này thể hiện cam kết của doanh nghiệp đối vớinghĩa vụ tôn trọng quyền con người và được công bố công khai. Nguyên tắc 16 của Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc đã dưa ra một số yêu cầu cụ thể về nội dung của bản tuyên bố này như: (i) Được phê duyệt ở cấp cao nhất của doanh nghiệp; (ii) Được thông báo bởi bộ phận chuyên môn trong nội bộ và/hoặc bên ngoài doanh nghiệp; (iii) Là văn bản đưa ra những mong đợi của doanh nghiệp về quyền con người đối vớingười lao động, đối tác kinh doanh và các bên có liên quan trực tiếp đến hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp; (iv) Được công khai và thông báo đến tất cả nhân viên, đối tác kinh doanh và các bên có liên quan khác trong và ngoài doanh nghiệp; (v) Được đưa vào trong các chính sách hoạt động và thủ tục cần thiết nhằm áp dụng trong toàn bộ doanh nghiệp.
Cam kết chính sách về quyền con người có thể dưới hình thức là một bản tuyên bố riêng nhưng cũng có thể được lồng nghép vào các chính sách, quy định hiện hành của doanh nghiệp hoặc được đưa vào bộ quy tắc hành nghề của doanh nghiệp.
Thứ hai, doanh nghiệp cần tiến hành thực hiện nghĩa vụ rà soát về quyền con người. Trách nhiệm rà soát (với sự cẩn trọng thích đáng) về quyền con người là một quá trình quản lý rủi ro mà doanh nghiệp cần xác định, ngăn ngừa, giảm thiểu và chịu trách nhiệm giải quyết các tác động tiêu cực về quyền con người do doanh nghiệp và các đối tác, chuỗi cung ứng của mình gây nên trong quá trình vận hành, sản xuất. Nguyên tắc 17 của Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc nêu rõ quá trình rà soát quyền con người cần bao gồm một số yếu tố như: (i) Tiến hành đánh giá tác động của hoạt động của doanh nghiệp (đánh giá rủi ro) đến quyền con người (bao gồm cả tác động thực tế và tác động tiềm ẩn); (ii) Trên cơ sở các phát hiện mà đánh giá đưa ra để có các biện pháp giải quyết phù hợp và lồng ghép các biện pháp này vào vào chính sách và hoạt động của doanh nghiệp; (iii) Luôn theo dõi, giám sát tính hiệu quả của các biện pháp đã và đang thực hiện để ngăn ngừa và giảm tác động tiêu cực về quyền con người; (iv) Cần cung cấp thông tin rộng rãi, đặc biệt là thông tin cho các nhóm, đối tượng bị ảnh hưởng về quá trình doanh nghiệp thực hiện rà soát nhân quyền con người và các kết quả đạt được; (v) Cuối cùng, rà soát quyền con người là một quá trình liên tục. Rủi ro về quyền con người có thể thay đổi theo thời gian khi các hoạt động kinh doanh và bối cảnh hoạt động của doanh nghiệp thay đổi.
Thứ ba, doanh nghiệp cần có các biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp gây nên những tác động tiêu cực hoặc vi phạm quyền quyền con người. Theo Nguyên tắc 19 Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc thì doanh nghiệp cần tiến hành các biện pháp cụ thể sau để giải quyết tác động nhân quyền:
- Đối với các tác động hay vi phạm quyền con người do chính doanh nghiệp gây ra, doanh nghiệp cần ngay lập tức chấm dứt và ngăn ngừa sự vi phạm này, đồng thời cần trực tiếp hoặc phối hợp với các bên liên quan để đưa ra biện pháp khắc phục hậu quả;
- Đối với các tác động hay vi phạm mà doanh nghiệp có góp phần gây ra hoặc đồng loã, doanh nghiệp cần có biện pháp cần thiết để chấm dứt và ngăn ngừa sự tham gia của mình cũng như cần dùng sự ảnh hưởng của mình để giảm thiểu các tác động tiêu cực về nhân quyền ở mức cao nhất có thể;
- Đối với các tác động hay vi phạm có liên quan đến chuỗi hoạt động, sản phẩm và dịch vụ thông qua quan hệ kinh doanh thì doanh nghiệp cũng cần sử dụng sự ảnh hưởng của mình để chấm dứt, ngăn ngừa sự tác động đó.
Cần lưu ý rằng, mặc dù doanh nghiệp cần giải quyết mọi tác động nhân quyền, nhưng trong một số trường hợp, doanh nghiệp có thể ưu tiên lựa chọn giải quyết trước một số vấn đề nhân quyền có tính nghiêm trọng hơn, nhất là trong trường hợp nếu trì hoãn giải quyết thì có thể gây hậu quả nặng nề.
Như vậy, tôn trọng quyền con người được coi là một trong ba trụ cột cơ bản trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc về doanh nghiệp và quyền con người. Với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, thiện chí chính trị của các quốc gia, áp lực từ phía các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ trách nhiệm của mình, đồng thời đưa ra các hành động, cam kết cụ thể để giảm thiểu rủi ro, hạn chế vi phạm quyền cũng như đóng góp vào việc bảo đảm quyền con người.
4. Hạn chế, bất cập trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam và giải pháp
4.1. Hạn chế, bất cập
Việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp ở nước ta tồn tại một số hạn chế, bất cập cụ thể như sau:
Thứ nhất, cơ chế pháp tính pháp lý của việc đánh giá thực hiện TNXH của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập như: Chưa có cơ chế xác định trách nhiệm cụ thể về TNXH của doanh nghiệp của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức đại diện doanh nghiệp và của doanh nghiệp; chưa có cơ chế cụ thể để tôn vinh những doanh nghiệp thực hiện TNXH của doanh nghiệp…
Thứ hai, sự hiểu biết của doanh nghiệp về TNXH của doanh nghiệp chưa đầy đủ. Nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu đơn thuần là làm từ thiện, mà chưa hiểu rằng việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp là phải thể hiện trực tiếp trong toàn bộ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Trên thực tế, một bộ phận doanh nghiệp chưa quan tâm nhiều đến bảo vệ môi trường, chưa thực hiện tốt TNXH về bảo vệ môi trường. Nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, công nghệ thủ công, hoạt động chủ yếu ở khu vực nông thôn, sản xuất, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp được xác định là đối tượng chính gây ra ô nhiễm môi trường ở khu vực nông thôn như: Ô nhiễm nguồn nước, đất đai, phá vỡ hệ sinh thái, ảnh hưởng không tốt đến sinh hoạt của người dân.
Thứ ba, một rào cản tác động bất lợi đến việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp là do nhiều doanh nghiệp hiện nay bị thiếu hụt nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực TNXH của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn thiếu trách nhiệm với Nhà nước và người lao động. Ngoài ra, những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp vì lợi nhuận trước mắt, đã sản xuất hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, gây tổn hại đến người tiêu dùng. Điều đó còn cho thấy, các doanh nghiệp này chưa thể hiện được TNXH đối với người tiêu dùng.
4.2. Giải pháp
Để có thể giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt TNXH của mình, cần có sự chung tay của cả phía Nhà nước và doanh nghiệp, cụ thể:
- Đối với Nhà nước:
+ Nhà nước cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải thực thi TNXH một cách đầy đủ, nghiêm túc và có những cơ chế, chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp có thể thực hiện được TNXH của mình như: Chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông sản, thực phẩm thực hiện các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, sản xuất theo công nghệ sạch,...
+ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, đưa ra chế tài xử phạt mạnh, đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm quy định trong việc thực hiện TNXH. Bên cạnh đó, cần tăng cường các hình thức khuyến khích, khen thưởng, tôn vinh đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội.
+ Giám sát chặt chẽ, đồng bộ việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp, theo đó, cần có sự kết hợp giữa chính quyền và các lực lượng liên quan, kể cả các lực lượng dân sự tự quản để đảm bảo doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện những nội dung đã cam kết.
+ Cần tăng cường thông tin, tuyên truyền để mọi người hiểu đúng về bản chất TNXH của doanh nghiệp, cũng như những lợi ích mà doanh nghiệp được hưởng khi thực hiện trách nhiệm xã hội. Việc tuyên truyền này cần được thực hiện qua nhiều hình thức như: Phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức tập huấn thậm chí là bắt buộc đối với lãnh đạo doanh nghiệp,...
- Đối với doanh nghiệp:
+ Trong chiến lược kinh doanh của mình, doanh nghiệp cần xây dựng nội dung thực hiện TNXH và coi đó như là nhân tố để bảo đảm sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
+ Lãnh đạo doanh nghiệp cần quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về TNXH của doanh nghiệp đối với cán bộ quản lý của mình.
Ở Việt Nam hiện nay, TNXH của doanh nghiệp vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ và được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp thường được xem là một hành động giải quyết các vấn đề xã hội vì các mục đích từ thiện và nhân đạo. Do đó, để các doanh nghiệp chủ động thực hiện TNXH là một thách thức không nhỏ, nó đòi hỏi một kế hoạch chu đáo, sự tận tâm để đánh giá đúng lợi ích tiềm năng đích thực, xây xựng niềm tin, triển khai các hoạt động nội bộ doanh nghiệp và các hoạt động bên ngoài xã hội. Theo đó, cần thay đổi nhận thức của doanh nghiệp và hoàn thiện cơ chế thực hiện TNXH của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thực hiện tốt TNXH là góp phần thực thi có hiệu quả pháp luật Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết có nội dung liên quan đến vấn đề này.
1.1. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội (TNXH) hiện nay vẫn đang là một khái niệm còn mới mẻ ở Việt Nam. Trên thực tế, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về TNXH của doanh nghiệp. Tuy nhiên, định nghĩa khái quát nhất là cách hiểu của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB), theo đó, TNXH của doanh nghiệp (CSR) được hiểu là cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng,… theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội.
TNXH của doanh nghiệp bao gồm nhiều khía cạnh liên quan đến ứng xử của doanh nghiệp đối với các chủ thể và đối tượng có liên quan trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, từ người sản xuất, tiếp thị, tiêu thụ, tiêu dùng đến các nhà cung ứng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ; từ đội ngũ cán bộ, nhân viên cho đến các cổ đông của doanh nghiệp. Trong đó có cả trách nhiệm về bảo vệ tài nguyên, môi trường, mà thực chất đó cũng là có trách nhiệm với lợi ích của cộng đồng xã hội, bao gồm cả những hoạt động nhân đạo, từ thiện, hoạt động đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước…
1.2. Quan niệm sai lầm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trên thực tế, hiện nay vẫn còn có những quan niệm, cách hiểu chưa chính xác, chưa đầy đủ về TNXH của doanh nghiệp, cụ thể:
- Quan niệm cho rằng, TNXH của doanh nghiệp nói riêng dùng để chỉ hoạt động liên quan đến làm từ thiện: Quan niệm này rất phổ biến. Đây là cách hiểu truyền thống, theo đó, thực hiện TNXH là tham gia hoạt động giải quyết các vấn đề xã hội mang tính từ thiện, nhân đạo. Quan niệm này chưa đầy đủ và thiếu chính xác, vì: Thứ nhất, nó chỉ đề cập đến một loại hoạt động hướng ngoại của doanh nghiệp, nhưng trên thực tế, khi thực hiện TNXH của mình, doanh nghiệp không chỉ hướng ra bên ngoài mà còn vì chính mục tiêu lợi ích, giá trị của bản thân; thứ hai, có những doanh nghiệp mượn danh làm từ thiện như là một hình thức quảng cáo cho thương hiệu của mình.
- Quan niệm cho rằng, TNXH của doanh nghiệp là để “đánh bóng” tên tuổi: Rất nhiều doanh nghiệp thực hiện TNXH của doanh nghiệp là do đối tác yêu cầu hoặc cần thu hút các nhà đầu tư, quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp để có thêm hợp đồng kinh doanh. Việc làm như vậy chỉ có ý nghĩa tức thời và đôi khi hiệu ứng ngược. Yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện TNXH nằm ở sự tự nhận thức và sự chủ động của chủ thể doanh nghiệp chứ không phải trông chờ vào sự tác động từ bên ngoài. Chừng nào doanh nghiệp chưa nhận thức được TNXH của mình có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thì chừng đó doanh nghiệp còn hành động một cách đối phó, nhiều khi là “đánh bóng” tên tuổi.
- Quan niệm cho rằng, TNXH của doanh nghiệp là một chi phí chứ không phải sự đầu tư: TNXH không phải là một hoạt động thứ yếu, doanh nghiệp có muốn thực hiện hay không mà là hoạt động song hành cùng với hoạt động sản xuất - kinh doanh, là một hoạt động tất yếu doanh nghiệp phải thực hiện ngay từ khi ra đời, nó được kiến tạo trên nền tảng của quan hệ lợi ích sao cho có lợi cho cả doanh nghiệp và xã hội. Hoạt động TNXH không phải là chi phí, mà là yếu tố thúc đẩy, góp phần tạo nên sự phát triển của chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện TNXH gián tiếp tạo ra môi trường, điều kiện tồn tại, phát triển cho chính bản thân mình.
- Quan niệm cho rằng, TNXH của doanh nghiệp là hành vi đạo đức của cá nhân một người lãnh đạo doanh nghiệp: TNXH vừa là một trong những thuộc tính vận động, vừa là một trong những phương thức tồn tại của doanh nghiệp. Vì vậy, TNXH của doanh nghiệp cần được hiểu là trách nhiệm tự thân, xuất phát từ nhu cầu tồn tại, phát triển của doanh nghiệp, chứ không chỉ là trách nhiệm muốn thì thực hiện, không muốn thì thôi hoặc có điều kiện thì làm, không có điều kiện thì không làm. Điều cốt lõi trong việc thực hiện TNXH là mỗi doanh nghiệp phải tự nhận thức và quyết định hành vi của mình để doanh nghiệp có được lợi ích trong kinh doanh, hướng tới lợi ích xã hội chứ không phải do sự ép buộc từ bên ngoài.
1.3. Phân biệt và trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp
Trong lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo 02 nghĩa tích cực và tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, khái niệm “trách nhiệm” có nghĩa là chức trách, công việc được giao, bao hàm cả quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định. Ở khía cạnh tiêu cực, “trách nhiệm” được hiểu là hậu quả bất lợi (sự phản ứng mang tính trừng phạt của Nhà nước) mà cá nhân, tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã quy định trong các quy phạm pháp luật.
- Dưới góc độ pháp luật: TNXH của doanh nghiệp có thể được nhìn nhận như một dạng đặc biệt của trách nhiệm pháp lý tích cực. Trách nhiệm đó đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng được những mong đợi, kỳ vọng của xã hội và thực hiện được cam kết của mình đem lại lợi ích tốt nhất cho tất cả các bên có lợi ích liên quan, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo đáp ứng được sự tuân thủ các quy định pháp luật cơ bản. Từ đó, khái niệm TNXH của doanh nghiệp được hình thành có thể thấy là sự kết hợp giữa việc doanh nghiệp phải đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật và vượt ra hơn nữa là những giá trị đạo đức và kỳ vọng của xã hội, cộng đồng. Tuy nhiên, TNXH của doanh nghiệp do bản chất là những cam kết tự nguyện của doanh nghiệp nên tuyệt nhiên không thể là pháp luật, do đó, không thể đánh đồng TNXH của doanh nghiệp với trách nhiệm pháp lý được. Vì thế, có thể thấy, TNXH của doanh nghiệp chính là sự kết hợp giữa việc doanh nghiệp một mặt phải tuân thủ những trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định và đồng thời là tự nguyện cam kết của doanh nghiệp để thực hiện những giá trị cao hơn trách nhiệm pháp lý tối thiểu.
- Về cơ sở phát sinh: Trách nhiệm pháp lý thông thường hay trách nhiệm pháp lý tiêu cực thường phát sinh khi xuất hiện những điều kiện do pháp luật quy định. Cơ sở phát sinh trách nhiệm pháp lý tiêu cực là những vi phạm pháp luật ở phạm vi, mức độ và lĩnh vực khác nhau. Trong khi đó, cơ sở phát sinh TNXH của doanh nghiệp thì không như vậy, về cơ bản, TNXH là một loại trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội và mang tính tự nguyện. Vì thế, nó gần như phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể, để quyết định thực hiện hay không thực hiện TNXH.
- Về tính đảm bảo, cưỡng chế thi hành: TNXH của doanh nghiệp do một phần nội dung chính là cam kết tự nguyện của doanh nghiệp nên chưa có tính cưỡng chế thi hành cao. Đối với trách nhiệm pháp lý, khi có hành vi vi phạm pháp luật thì căn cứ vào các quy định của pháp luật, việc thực hiện trách nhiệm mang tính bắt buộc và chủ thể nếu vi phạm trách nhiệm sẽ phải gánh chịu chế tài hợp lý. Còn đối với TNXH, ở góc độ những cam kết tự nguyện, do vượt ra ngoài phạm vi khuôn khổ của trách nhiệm pháp lý nên việc đảm bảo tính cưỡng chế thi hành là không tồn tại, có chăng chỉ là trông chờ vào sự tự nguyện của chủ thể có trách nhiệm.
Qua phân tích bản chất pháp lý của TNXH của doanh nghiệp có thể thấy, ranh giới giữa TNXH và trách nhiệm pháp lý là rất mong manh và khó phân định, giữa chúng có những nét chung và đồng thời có những điểm riêng. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, TNHX là một khái niệm rộng hơn và bao hàm cả trách nhiệm pháp lý. Doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện tốt TNXH khi đã thực hiện tốt trách nhiệm pháp lý. Mặt khác, để thực hiện tốt trách nhiệm pháp lý thì doanh nghiệp cần phải có ý thức về TNXH.
2. Nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
TNXH của doanh nghiệp là một hiện tượng xã hội, tồn tại tất yếu khách quan trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp và là một thuộc tính vốn có của doanh nghiệp. Bản chất của hiện tượng TNXH của doanh nghiệp gắn liền với quá trình vận động, phát triển của doanh nghiệp, của xã hội và các nhân tố tác động đến quá trình đó. Các vị thế của doanh nghiệp sẽ tương ứng với mối quan hệ của doanh nghiệp: (i) Với tư cách là thiết chế kinh tế thuộc cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp có mối quan hệ với kinh tế thị trường; (ii) Với tư cách là thực thể xã hội, doanh nghiệp có mối quan hệ với môi trường tự nhiên; (iii) Với tư cách là chủ thể trong xã hội, doanh nghiệp có mối quan hệ với các chủ thể khác trong xã hội. Ở mỗi vị thế, doanh nghiệp có TNXH khác nhau.
2.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với vị thế là một thiết chế kinh tế
Doanh nghiệp sinh ra và tồn tại với chức năng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội vì mục đích sinh lời. Trong mối quan hệ này, TNXH sẽ bao gồm các trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm với người lao động và trách nhiệm với người tiêu dùng.
- Trách nhiệm đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, bao gồm: Trách nhiệm đóng thuế, đóng góp vào sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội tạo việc làm cho xã hội; trách nhiệm phòng chống tham nhũng.
- Trách nhiệm đối với người lao động, bao gồm: (i) Trách nhiệm nâng cao chất lượng môi trường lao động, cụ thể như: Đảm bảo các về chế độ tiền lương, tiền thưởng, các chế độ phúc lợi, các chế độ khác cho người lao động; trách nhiệm đối với về vấn đề lao động cưỡng bức, việc sử dụng lao động trẻ em, lao động khuyết tật…; trách nhiệm đào tạo và phát triển người lao động; trách nhiệm thành lập và đảm bảo hoạt động của tổ chức độc lập đại diện cho quyền lợi của người lao động. (ii) Trách nhiệm nâng cao chất lượng sống của người lao động, cụ thể như: Đảm bảo các điều kiện làm việc, an toàn sức khỏe nghề nghiệp, an toàn vệ sinh lao động.
- Trách nhiệm với người tiêu dùng, bao gồm: Không sản xuất, kinh doanh hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng ảnh hưởng đến người tiêu dùng; trách nhiệm sản phẩm (là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng).
2.2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể xã hội - trách nhiệm với môi trường
Trách nhiệm bảo vệ môi trường là một yếu tố không thể thiếu cấu thành TNXH của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tồn tại như một thực thể trong xã hội, do đó, để tồn tại, thực thể ấy không thể không có những tác động vào môi trường tự nhiên. Tình trạng khai khác khoáng sản bừa bãi làm cho tài nguyên quốc gia kiệt quệ; hiện tượng xả khí thải, nước thải chưa xử lý ra môi trường của các doanh nghiệp gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, hủy diệt môi trường sống là những hành vi không mang tính TNXH. Doanh nghiệp phải thực hiện tốt pháp luật của quốc gia và quốc tế về môi trường. Trách nhiệm môi trường thể hiện qua những hoạt động cụ thể như: Tuân thủ pháp luật, yêu cầu, tiêu chuẩn môi trường; dự báo tác hại có thể xảy ra với môi trường, xây dựng phương án, kế hoạch và lập báo cáo định kỳ với cơ quan quản lý của nhà nước và trên phương tiện thông tin đại chúng; cam kết không khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường (môi trường đất, nước, không khí, tiếng ồn…); sử dụng công nghệ, trang thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất đúng quy định của pháp luật và theo hướng thân thiện với môi trường; có quy trình xử lý nước thải, chất thải đúng quy định, không xả chất thải rắn, chất thải độc hại hủy hoại môi trường; tham gia hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái bằng các hoạt động tái đầu tư các dự án bảo vệ môi trường trong cộng đồng dân cư…
2.3. của doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể xã hội - trách nhiệm đối với cộng đồng
Với tư cách chủ thể xã hội, doanh nghiệp là một tế bào, thành tố tạo thành xã hội, vận động trong sự vận động của xã hội. Chủ thể doanh nghiệp có mối quan hệ phức tạp với các chủ thể xã hội khác trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp này, TNXH của doanh nghiệp là việc tham gia giải quyết các vấn đề xã hội nhằm đảm bảo an sinh xã hội, công bằng xã hội, an ninh quốc phòng. Do đó, trước những vấn đề của xã hội, doanh nghiệp không thể đứng ngoài và luôn phải hướng tới mục tiêu là vì cộng đồng và san sẻ gánh nặng với cộng đồng. Doanh nghiệp có trách nhiệm dành một phần lợi nhuận đóng góp vào các hoạt động trợ giúp cộng đồng một cách thường xuyên. Trách nhiệm này được thể hiện thông qua một số hoạt động cụ thể như: Đóng góp xây dựng quốc phòng an ninh; đóng góp phát triển cơ sở hạ tầng cho địa phương; tham gia các hoạt động từ thiện; xóa đói giảm nghèo; đầu tư vào giáo dục, tài trợ các hoạt động văn hóa, thể thao của địa phương, xã hội; trợ giúp cho những đối tượng bảo trợ, cần được hỗ trợ (người gặp thiên tai, người già, trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn,…).
3. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với việc bảm đảm quyền con người
Theo Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về doanh nghiệp và quyền con người[1] (sau đây gọi tắt là Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc), mọi doanh nghiệp đều có trách nhiệm phải tôn trọng quyền con người bằng những phương thức cụ thể như:
Thứ nhất, doanh nghiệp cần có cam kết, tuyên bố chính sách về quyền con người. Bước quan trọng đầu tiên để thực hiện việc tôn trọng quyền con người, doanh nghiệp cần thông qua một bản tuyên bố về mặt chính sách (cam kết chính sách). Bản tuyên bố này thể hiện cam kết của doanh nghiệp đối vớinghĩa vụ tôn trọng quyền con người và được công bố công khai. Nguyên tắc 16 của Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc đã dưa ra một số yêu cầu cụ thể về nội dung của bản tuyên bố này như: (i) Được phê duyệt ở cấp cao nhất của doanh nghiệp; (ii) Được thông báo bởi bộ phận chuyên môn trong nội bộ và/hoặc bên ngoài doanh nghiệp; (iii) Là văn bản đưa ra những mong đợi của doanh nghiệp về quyền con người đối vớingười lao động, đối tác kinh doanh và các bên có liên quan trực tiếp đến hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp; (iv) Được công khai và thông báo đến tất cả nhân viên, đối tác kinh doanh và các bên có liên quan khác trong và ngoài doanh nghiệp; (v) Được đưa vào trong các chính sách hoạt động và thủ tục cần thiết nhằm áp dụng trong toàn bộ doanh nghiệp.
Cam kết chính sách về quyền con người có thể dưới hình thức là một bản tuyên bố riêng nhưng cũng có thể được lồng nghép vào các chính sách, quy định hiện hành của doanh nghiệp hoặc được đưa vào bộ quy tắc hành nghề của doanh nghiệp.
Thứ hai, doanh nghiệp cần tiến hành thực hiện nghĩa vụ rà soát về quyền con người. Trách nhiệm rà soát (với sự cẩn trọng thích đáng) về quyền con người là một quá trình quản lý rủi ro mà doanh nghiệp cần xác định, ngăn ngừa, giảm thiểu và chịu trách nhiệm giải quyết các tác động tiêu cực về quyền con người do doanh nghiệp và các đối tác, chuỗi cung ứng của mình gây nên trong quá trình vận hành, sản xuất. Nguyên tắc 17 của Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc nêu rõ quá trình rà soát quyền con người cần bao gồm một số yếu tố như: (i) Tiến hành đánh giá tác động của hoạt động của doanh nghiệp (đánh giá rủi ro) đến quyền con người (bao gồm cả tác động thực tế và tác động tiềm ẩn); (ii) Trên cơ sở các phát hiện mà đánh giá đưa ra để có các biện pháp giải quyết phù hợp và lồng ghép các biện pháp này vào vào chính sách và hoạt động của doanh nghiệp; (iii) Luôn theo dõi, giám sát tính hiệu quả của các biện pháp đã và đang thực hiện để ngăn ngừa và giảm tác động tiêu cực về quyền con người; (iv) Cần cung cấp thông tin rộng rãi, đặc biệt là thông tin cho các nhóm, đối tượng bị ảnh hưởng về quá trình doanh nghiệp thực hiện rà soát nhân quyền con người và các kết quả đạt được; (v) Cuối cùng, rà soát quyền con người là một quá trình liên tục. Rủi ro về quyền con người có thể thay đổi theo thời gian khi các hoạt động kinh doanh và bối cảnh hoạt động của doanh nghiệp thay đổi.
Thứ ba, doanh nghiệp cần có các biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp gây nên những tác động tiêu cực hoặc vi phạm quyền quyền con người. Theo Nguyên tắc 19 Các nguyên tắc hướng dẫn của Liên Hợp Quốc thì doanh nghiệp cần tiến hành các biện pháp cụ thể sau để giải quyết tác động nhân quyền:
- Đối với các tác động hay vi phạm quyền con người do chính doanh nghiệp gây ra, doanh nghiệp cần ngay lập tức chấm dứt và ngăn ngừa sự vi phạm này, đồng thời cần trực tiếp hoặc phối hợp với các bên liên quan để đưa ra biện pháp khắc phục hậu quả;
- Đối với các tác động hay vi phạm mà doanh nghiệp có góp phần gây ra hoặc đồng loã, doanh nghiệp cần có biện pháp cần thiết để chấm dứt và ngăn ngừa sự tham gia của mình cũng như cần dùng sự ảnh hưởng của mình để giảm thiểu các tác động tiêu cực về nhân quyền ở mức cao nhất có thể;
- Đối với các tác động hay vi phạm có liên quan đến chuỗi hoạt động, sản phẩm và dịch vụ thông qua quan hệ kinh doanh thì doanh nghiệp cũng cần sử dụng sự ảnh hưởng của mình để chấm dứt, ngăn ngừa sự tác động đó.
Cần lưu ý rằng, mặc dù doanh nghiệp cần giải quyết mọi tác động nhân quyền, nhưng trong một số trường hợp, doanh nghiệp có thể ưu tiên lựa chọn giải quyết trước một số vấn đề nhân quyền có tính nghiêm trọng hơn, nhất là trong trường hợp nếu trì hoãn giải quyết thì có thể gây hậu quả nặng nề.
Như vậy, tôn trọng quyền con người được coi là một trong ba trụ cột cơ bản trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc về doanh nghiệp và quyền con người. Với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, thiện chí chính trị của các quốc gia, áp lực từ phía các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ trách nhiệm của mình, đồng thời đưa ra các hành động, cam kết cụ thể để giảm thiểu rủi ro, hạn chế vi phạm quyền cũng như đóng góp vào việc bảo đảm quyền con người.
4. Hạn chế, bất cập trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam và giải pháp
4.1. Hạn chế, bất cập
Việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp ở nước ta tồn tại một số hạn chế, bất cập cụ thể như sau:
Thứ nhất, cơ chế pháp tính pháp lý của việc đánh giá thực hiện TNXH của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập như: Chưa có cơ chế xác định trách nhiệm cụ thể về TNXH của doanh nghiệp của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức đại diện doanh nghiệp và của doanh nghiệp; chưa có cơ chế cụ thể để tôn vinh những doanh nghiệp thực hiện TNXH của doanh nghiệp…
Thứ hai, sự hiểu biết của doanh nghiệp về TNXH của doanh nghiệp chưa đầy đủ. Nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu đơn thuần là làm từ thiện, mà chưa hiểu rằng việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp là phải thể hiện trực tiếp trong toàn bộ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Trên thực tế, một bộ phận doanh nghiệp chưa quan tâm nhiều đến bảo vệ môi trường, chưa thực hiện tốt TNXH về bảo vệ môi trường. Nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, công nghệ thủ công, hoạt động chủ yếu ở khu vực nông thôn, sản xuất, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp được xác định là đối tượng chính gây ra ô nhiễm môi trường ở khu vực nông thôn như: Ô nhiễm nguồn nước, đất đai, phá vỡ hệ sinh thái, ảnh hưởng không tốt đến sinh hoạt của người dân.
Thứ ba, một rào cản tác động bất lợi đến việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp là do nhiều doanh nghiệp hiện nay bị thiếu hụt nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực TNXH của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn thiếu trách nhiệm với Nhà nước và người lao động. Ngoài ra, những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp vì lợi nhuận trước mắt, đã sản xuất hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, gây tổn hại đến người tiêu dùng. Điều đó còn cho thấy, các doanh nghiệp này chưa thể hiện được TNXH đối với người tiêu dùng.
4.2. Giải pháp
Để có thể giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt TNXH của mình, cần có sự chung tay của cả phía Nhà nước và doanh nghiệp, cụ thể:
- Đối với Nhà nước:
+ Nhà nước cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải thực thi TNXH một cách đầy đủ, nghiêm túc và có những cơ chế, chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp có thể thực hiện được TNXH của mình như: Chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông sản, thực phẩm thực hiện các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, sản xuất theo công nghệ sạch,...
+ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, đưa ra chế tài xử phạt mạnh, đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm quy định trong việc thực hiện TNXH. Bên cạnh đó, cần tăng cường các hình thức khuyến khích, khen thưởng, tôn vinh đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội.
+ Giám sát chặt chẽ, đồng bộ việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp, theo đó, cần có sự kết hợp giữa chính quyền và các lực lượng liên quan, kể cả các lực lượng dân sự tự quản để đảm bảo doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện những nội dung đã cam kết.
+ Cần tăng cường thông tin, tuyên truyền để mọi người hiểu đúng về bản chất TNXH của doanh nghiệp, cũng như những lợi ích mà doanh nghiệp được hưởng khi thực hiện trách nhiệm xã hội. Việc tuyên truyền này cần được thực hiện qua nhiều hình thức như: Phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức tập huấn thậm chí là bắt buộc đối với lãnh đạo doanh nghiệp,...
- Đối với doanh nghiệp:
+ Trong chiến lược kinh doanh của mình, doanh nghiệp cần xây dựng nội dung thực hiện TNXH và coi đó như là nhân tố để bảo đảm sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
+ Lãnh đạo doanh nghiệp cần quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về TNXH của doanh nghiệp đối với cán bộ quản lý của mình.
Ở Việt Nam hiện nay, TNXH của doanh nghiệp vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ và được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp thường được xem là một hành động giải quyết các vấn đề xã hội vì các mục đích từ thiện và nhân đạo. Do đó, để các doanh nghiệp chủ động thực hiện TNXH là một thách thức không nhỏ, nó đòi hỏi một kế hoạch chu đáo, sự tận tâm để đánh giá đúng lợi ích tiềm năng đích thực, xây xựng niềm tin, triển khai các hoạt động nội bộ doanh nghiệp và các hoạt động bên ngoài xã hội. Theo đó, cần thay đổi nhận thức của doanh nghiệp và hoàn thiện cơ chế thực hiện TNXH của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thực hiện tốt TNXH là góp phần thực thi có hiệu quả pháp luật Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết có nội dung liên quan đến vấn đề này.
Bùi Huyền
(Tổng hợp từ tài liệu Hội nghị đối thoại "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp"
do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 13/11/2018 tại Hà Nội)
(Tổng hợp từ tài liệu Hội nghị đối thoại "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp"
do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 13/11/2018 tại Hà Nội)
[1] Các nguyên tắc hướng dẫn này do đại diện đặc biệt về vấn đề quyền con người, tập đoàn xuyên quốc gia và các doanh nghiệp khác soạn thảo, sau đó được Hội đồng Nhân quyền của Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết sô 17/4 ngày 16/6/2011.