Chế định đại diện đã bước đầu được quy định một cách khái quát trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 và ngày càng hoàn thiện trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011. Tuy nhiên, nhiều quy định về đại diện của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 vẫn chưa đầy đủ, nhiều quy định còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng, nhiều vấn đề cấp thiết chưa được luật hóa. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được ban hành đã khắc phục nhiều điểm chưa hợp lý về người đại diện trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước đây, đảm bảo tốt hơn sự tương thích giữa pháp luật tố tụng dân sự với pháp luật nội dung nhưng vẫn còn có những tồn tại cần nghiên cứu để hoàn thiện.
1. Khó khăn khi xác định người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người chưa thành niên
Theo Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cha, mẹ là đại diện theo pháp luật đối với con chưa thành niên. Khoản 2 Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu. Quy định của Bộ luật Dân sự có nghĩa cha, mẹ đồng thời là người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên, người giám hộ cho con mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Tuy nhiên, nếu áp dụng các quy định này trong tố tụng dân sự sẽ dẫn đến rắc rối khi xác định người đại diện trong tố tụng dân sự là cả cha và mẹ hay chỉ là cha hoặc mẹ. Trong trường hợp, cha, mẹ không thống nhất được việc cử ai là người đại diện theo pháp luật thì cha hay mẹ sẽ là người đại diện theo pháp luật cho con tham gia tố tụng. Trong trường hợp cha hoặc mẹ đã tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật cho con thì Tòa án có phải triệu tập đương sự tham gia tố tụng hay không? Việc xác định tư cách người đại diện trong tố tụng có những đặc thù riêng mà nếu dẫn chiếu theo pháp luật dân sự sẽ dẫn đến những vướng mắc cần phải được làm rõ.
Theo chúng tôi, nếu xác định cả cha, mẹ của người chưa thành niên, người con mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự là không cần thiết và phức tạp hơn quá trình tố tụng. Bởi mục đích của việc tham gia tố tụng dân sự của người đại diện của đương sự là thay mặt đương sự trong tố tụng dân sự. Trong trường hợp người con không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì lời khai, ý kiến của cha, mẹ về việc giải quyết vụ việc dân sự phải thống nhất, không mâu thuẫn. Do đó, cha, mẹ cần thống nhất về việc xác định một người đại diện cho con tham gia tố tụng và Tòa án chỉ triệu tập người đó tham gia tố tụng. Trong trường hợp cha hoặc mẹ đã tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật cho con thì Tòa án không cần thiết phải triệu tập đương sự tham gia tố tụng để hỏi ý kiến họ về quan điểm giải quyết vụ án. Tuy nhiên, người chưa thành niên có được xác định là bị đơn trong vụ án mà họ là người gây thiệt hại hay không là những vấn đề còn vướng mắc giữa quy định của pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự. Trước đây, Điều 3 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có hướng dẫn: Khi thực hiện quy định tại Điều 606 Bộ luật Dân sự về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần phải chú ý xác định đúng tư cách đương sự trong từng trường hợp, cụ thể như sau:
- Trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 Bộ luật Dân sự thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự, trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự;
- Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 Bộ luật Dân sự thì cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự;
- Trong trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 Bộ luật Dân sự thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 Bộ luật Dân sự thì cá nhân, tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự.
Cho đến nay, chưa có hướng dẫn mới của Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề này nên thực tiễn vẫn xác định người chưa thành niên trong trường hợp này là người gây thiệt hại. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước đây và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không có quy định về tư cách của người gây thiệt hại. Chúng tôi cho rằng, mặc dù đưa cha hoặc mẹ của người gây thiệt hại chưa thành niên vào tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn dân sự, song nhiều trường hợp Tòa án vẫn cần triệu tập người chưa thành niên để xác định hành vi gây thiệt hại, lỗi và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Do đó, để đảm bảo sự tương thích với quy định của pháp luật dân sự thì pháp luật tố tụng dân sự cần bổ sung một “loại” đương sự đặc thù trong các vụ án về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là người gây thiệt hại, đồng thời quy định rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của “loại” chủ thể này.
2. Quy định về phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện ủy quyền trong pháp luật tố tụng dân sự chưa thật sự tương thích với quy định của pháp luật dân sự
Các quan hệ pháp luật thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự bao gồm quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Đặc trưng của quan hệ nhân thân là quan hệ không được chuyển giao. Do đó, về nguyên tắc đối với các tranh chấp về quyền nhân thân thì các đương sự không được ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng. Trên cơ sở đó, khoản 4 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, thế nào là việc ly hôn còn có các cách hiểu khác nhau:
Cách hiểu thứ nhất cho rằng, việc ly hôn là tất cả các loại việc liên quan đến hôn nhân và gia đình theo Điều 27 và 28 Bộ luật Tố tụng dân sự đều không được ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng.
Cách hiểu thứ hai cho rằng, việc ly hôn là các loại việc về ly hôn, thuận tình ly hôn, hủy kết hôn trái pháp luật, yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng.
Cách hiểu thứ ba cho rằng, việc ly hôn chỉ là vụ án về ly hôn.
Theo chúng tôi, việc xác định về phạm vi những vụ việc dân sự được ủy quyền trong tố tụng dân sự cần phải căn cứ vào bản chất của quan hệ dân sự. Đối với các tranh chấp, yêu cầu dân sự mà là các tranh chấp, yêu cầu liên quan đến tài sản thì đặc trưng của quan hệ tài sản (kể cả là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân) là quan hệ có thể được chuyển giao nên các đương sự được quyền tự do ủy quyền. Đối với tranh chấp về quan hệ nhân thân là quan hệ không được chuyển giao nên đương sự, người đại diện của đương sự phải tự mình tham gia tố tụng mà không được ủy quyền. Do đó, có thể thấy quy định về phạm vi ủy quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vừa không rõ ràng, vừa thiếu, vừa thừa.
Căn cứ vào các lập luận trên, theo chúng tôi cần sửa khoản 4 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng: Đối với các tranh chấp, yêu cầu về quyền nhân thân đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.
3. Quy định về người đại diện do Tòa án chỉ định trong pháp luật dân sự không tương thích với quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Đối với trường hợp đương sự là người vắng mặt, không tin tức thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa có quy định về việc chỉ định người đại diện cho đối tượng này. Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mới chỉ quy định về chỉ định người đại diện cho cá nhân, chỉ định đại diện đối với vụ việc lao động và mà chưa quy định về chỉ định người đại diện đối với pháp nhân trong các vụ việc dân sự nói chung. Do đó, quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án là đại diện theo pháp luật của pháp nhân không tương thích với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn để lựa chọn người đại diện theo chỉ định. Về thẩm quyền chỉ định người đại diện cũng là vấn đề cần được quy định cụ thể hơn, hiện nay trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vẫn chỉ dừng lại ở việc quy định thẩm quyền chỉ định người đại diện cho đương sự là Tòa án[1] mà không chỉ rõ thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự hay Hội đồng xét xử mới được chỉ định người đại diện?
Do đó, cần quy định rõ thẩm quyền chỉ định đại diện, trình tự, thủ tục, cách thức chỉ định người đại diện cho đương sự.
4. Quy định về hình thức ủy quyền trong pháp luật tố tụng dân sự chưa thật sự tương thích với quy định của pháp luật dân sự
Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự cũng cho thấy vấn đề xác định tính hợp pháp về hình thức của đơn khởi kiện do người đại diện theo ủy quyền đứng đơn khởi kiện còn chưa thống nhất trong áp dụng pháp luật. Ví dụ như, theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bản thân quy định này đã trao cho người đại diện hợp pháp quyền khởi kiện. Từ quy định này cho thấy việc người đại diện theo ủy quyền ký vào đơn khởi kiện là hoàn toàn hợp pháp và không có lý do để cho rằng không thể hiện ý chí và nguyện vọng của người khởi kiện. Tuy nhiên, quy định này lại trái với Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bởi Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định ở phần cuối đơn, cá nhân (đương sự) đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Chúng tôi cho rằng, quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là chưa thực sự tôn trọng quyền tự do, tự nguyện, cam kết thỏa thuận của cá nhân, pháp nhân và trái với Điều 85, 186 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó cần sửa Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng người đại diện theo ủy quyền có quyền ký đơn khởi kiện vụ án dân sự.
Bên cạnh đó, vấn đề về văn bản ủy quyền (Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự) cũng chưa có quy định thống nhất là giấy ủy quyền hay hợp đồng ủy quyền nên thời gian qua, việc sử dụng các văn bản ủy quyền của người đại diện trong tố tụng dân sự cũng gặp nhiều vướng mắc. Có cơ quan tố tụng chấp nhận cả hai hình thức trên vì cho rằng nó thay thế nhau, không trái quy định của pháp luật, nhưng cũng có cơ quan tố tụng chỉ chấp nhận giấy ủy quyền mà không chấp nhận hợp đồng ủy quyền... Thậm chí, khoản 8 Điều 2 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 quy định việc ủy quyền được hướng dẫn tại các khoản 4, 5 và 6 Điều này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của thẩm phán hoặc cán bộ Tòa án được Chánh án Tòa án phân công. Vì vậy, để bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự cần quy định cụ thể về hình thức ủy quyền.
Ngoài ra, thực tiễn giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động thời gian qua cũng cho thấy người đại diện còn rất “lúng túng” trong việc tham gia tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình. Tình trạng các Tòa án sai lầm trong xác định tư cách tố tụng của người đại diện của đương sự hay không thực hiện đúng các quy định về người đại diện của đương sự... dẫn đến hậu quả quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ; bản án, quyết định của Tòa án bị hủy làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án vẫn tồn tại trên thực tế.
Học viện Tư pháp
[1]. Điều 88. Chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự
(1). Khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.
(2). Đối với vụ việc lao động mà có đương sự thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này hoặc người lao động là người chưa thành niên mà không có người đại diện và Tòa án cũng không chỉ định được người đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Tòa án chỉ định tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao động đó.