
![]() |
Ảnh: Duy Hoàng. |
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng (Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 45- CT/TW ngày 19/5/2015, Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển số quốc gia; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới), đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam. Qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, thống nhất đất nước và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được ban hành đã kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong các quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam, đặc biệt là quy định về nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho người có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được trở lại quốc tịch Việt Nam; thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, các doanh nhân, nhà đầu tư nước ngoài... đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới; đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin; đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư.
Luật gồm 03 điều: Điều 1 sửa đổi, bổ sung 21/44 điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (sau đây gọi là Luật Quốc tịch); Điều 2 quy định về điều khoản thi hành; Điều 3 quy định về điều khoản chuyển tiếp.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm cụ thể hóa 02 chính sách lớn:
Chính sách 1: Nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam. Cụ thể:
(i) Người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ, người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện "có năng lực hành vi dân sự đầy đủ".
(ii) Người chưa thành niên nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ hoặc người chưa thành niên có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam thì được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19 Luật Quốc tịch (biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam, đang thường trú tại Việt Nam, thời gian thường trú tại Việt Nam từ 05 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam). Các trường hợp này được nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, nếu cư trú ở nước ngoài.
(iii) Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại hoặc vợ hoặc chồng hoặc con đẻ là công dân Việt Nam thì được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện (việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước đó; không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và được Chủ tịch nước cho phép.
(iv) Người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xin nhập quốc tịch Việt Nam thì được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19. Đồng thời, các trường hợp này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện tương tự trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại hoặc vợ hoặc chồng hoặc con đẻ là công dân Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép.
Chính sách 2: Nới lỏng điều kiện liên quan đến việc trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam. Cụ thể:
(i) Bỏ quy định về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam tại khoản 1 Điều 23 Luật Quốc tịch. Theo đó, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì được xem xét giải quyết trở lại quốc tịch Việt Nam.
(ii) Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện tương tự trường hợp được nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài và được Chủ tịch nước cho phép.
Bên cạnh việc nới lỏng điều kiện nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác nhằm bảo đảm tính khả thi trong thực hiện 02 chính sách này như: Quy định nhằm bảo đảm sự thống nhất về việc áp dụng pháp luật đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài (khoản 4 Điều 5); quy định về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong một số trường hợp (khoản 5, khoản 6, khoản 7 Điều 5); quy định bảo đảm quyền chủ quyền quốc gia tuyệt đối đối với vấn đề quốc tịch (khoản 8 Điều 5); thu hồi quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, trách nhiệm xác minh của Bộ Công an trong trình tự giải quyết hồ sơ quốc tịch, việc ứng dụng công nghệ thông tin…