
Giám sát trọng điểm năm 2022 chỉ ra tỷ lệ hiện nhiễm trong nhóm MSM là 12,5% tăng nhanh so với năm 2012 chỉ là 4%[1]. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, tính đến tháng 9/2024, có 52.695 người nhiễm HIV được quản lý, trong đó 48.741 người đang điều trị thuốc kháng vi rút HIV (ARV)[2]. Trên phạm vi toàn quốc, số người nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc ARV đến hết tháng 12/2024 là 184.214 người, trong đó có 2.365 trẻ em. Người nhiễm HIV hiện đang được điều trị tại 496 cơ sở y tế, điều trị trong các trại giam, trại tạm giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc[3].
Trước thực trạng trên, bên cạnh các biện pháp y tế truyền thống, việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người nhiễm HIV/AIDS trở thành yêu cầu cấp thiết. Trong bối cảnh đó, trợ giúp pháp lý được xác định như một chính sách nhân văn trong hệ thống an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước. Trợ giúp pháp lý giúp người nhiễm HIV/AIDS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, tránh bị kỳ thị, phân biệt đối xử và tổn thương về tinh thần, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền công bằng trong tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
Đặc biệt, công tác trợ giúp pháp lý có mối liên hệ mật thiết với Chiến lược quốc gia chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1246/QĐ-TTg ngày 14/8/2020. Chiến lược này đặt ra mục tiêu là giảm số người mới nhiễm HIV và tử vong liên quan đến AIDS, tiến tới chấm dứt dịch AIDS tại Việt Nam vào năm 2030, đồng thời giảm thiểu tối đa tác động của dịch HIV/AIDS đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù Chiến lược quốc gia chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030 không trực tiếp đề cập đến trợ giúp pháp lý nhưng các mục tiêu như giảm kỳ thị và phân biệt đối xử, bảo đảm quyền tiếp cận chăm sóc y tế và giảm thiểu tác động kinh tế - xã hội của dịch bệnh đòi hỏi sự hỗ trợ pháp lý mạnh mẽ cho người nhiễm HIV/AIDS. Kỳ thị và phân biệt đối xử là những rào cản lớn nhất khiến người nhiễm HIV không thể tiếp cận đầy đủ các dịch vụ y tế, việc làm, nhà ở và các dịch vụ xã hội khác. Nếu không có trợ giúp pháp lý hỗ trợ, người nhiễm HIV sẽ khó có thể hòa nhập cộng đồng hoặc tiếp cận các dịch vụ cần thiết cho sức khỏe và cuộc sống của họ, từ đó làm suy yếu các mục tiêu của Chiến lược quốc gia chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030.
Quyền được trợ giúp pháp lý của người nhiễm HIV theo quy định pháp luật Việt Nam
Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) đã tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam. Luật không chỉ quy định về các biện pháp dự phòng, giám sát, điều trị mà còn đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ quyền của người nhiễm HIV. Khoản 1 Điều 4 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định người nhiễm HIV được hưởng các quyền cơ bản gồm: (i) Quyền được sống hòa nhập với cộng đồng và xã hội; (ii) Quyền được chăm sóc và điều trị y tế; (iii) Quyền được học tập, học nghề và có việc làm; (iv) Quyền được giữ bí mật thông tin liên quan đến HIV/AIDS của mình; (v) Quyền từ chối khám bệnh và điều trị khi ở giai đoạn cuối AIDS.
Quyền được sống hòa nhập cộng đồng, được học tập, học nghề và có việc làm là những quyền cơ bản và thiết yếu để người nhiễm HIV có thể duy trì cuộc sống ổn định và đóng góp cho xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, những quyền này thường xuyên bị xâm phạm bởi tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử nặng nề trong cộng đồng. Sự tồn tại của kỳ thị và phân biệt đối xử khiến cho các quyền được nêu trong Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) trở nên khó thực hiện trong cuộc sống hàng ngày. Việc chỉ ban hành Luật là chưa đủ mà cần phải có các cơ chế khác để thực thi và bảo vệ những quyền đó. Vì vậy, trợ giúp pháp lý trở thành một cơ chế thiết yếu để bảo đảm các quyền được quy định trong Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) không chỉ tồn tại trên giấy tờ mà còn được hiện thực hóa trong cuộc sống của người nhiễm HIV. Trợ giúp pháp lý đóng vai trò như một cầu nối giữa các quy định pháp luật và thực tiễn, giúp người nhiễm HIV có thể đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 là văn bản pháp luật quan trọng nhất quy định về hoạt động trợ giúp pháp lý tại Việt Nam. Luật định nghĩa trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong các vụ việc cụ thể, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
Về đối tượng được trợ giúp pháp lý, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã mở rộng phạm vi đối tượng được trợ giúp pháp lý lên 14 nhóm đối tượng so với 06 nhóm đối tượng của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006. Việc mở rộng diện đối tượng trợ giúp pháp lý thể hiện chính sách nhân văn và sự quan tâm của Nhà nước đối với các nhóm yếu thế trong xã hội. Theo đó, người nhiễm HIV có khó khăn về tài chính thuộc diện được trợ giúp pháp lý, cụ thể: Người nhiễm HIV thuộc hộ cận nghèo hoặc người nhiễm HIV được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định pháp luật. Bên cạnh đó, người nhiễm HIV thuộc hộ nghèo, trẻ em nhiễm HIV, người nhiễm HIV là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người nhiễm HIV là người có công với cách mạng và người nhiễm HIV thuộc diện được trợ giúp pháp lý khác theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 cũng được trợ giúp pháp lý miễn phí.
Về hình thức trợ giúp pháp lý: Khi đối mặt với các vấn đề hoặc tranh chấp pháp luật, người nhiễm HIV đủ điều kiện có thể nhận trợ giúp pháp lý dưới ba hình thức chính: (i) Tư vấn pháp luật: Hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hòa giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc; (ii) Tham gia tố tụng: Người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia với tư cách người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người người nhiễm HIV trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính; (iii) Đại diện ngoài tố tụng: Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thay mặt cho người nhiễm HIV thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ trong quan hệ pháp luật (quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hành chính...) trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các công việc này không nằm trong giai đoạn, thủ tục tố tụng. Với hình thức thực hiện trợ giúp pháp lý này, trợ giúp viên pháp lý, luật sư hoạt động với tư cách là người đại diện theo uỷ quyền của người nhiễm HIV.
Các vụ việc trợ giúp pháp lý có thể thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như dân sự, hình sự, hành chính, nhưng không bao gồm các vấn đề kinh doanh, thương mại.
Về quyền và nghĩa vụ của người được trợ giúp pháp lý[4]: Người nhiễm HIV khi được trợ giúp pháp lý có đầy đủ các quyền như các đối tượng khác gồm: Được trợ giúp pháp lý mà không phải trả tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác; tự mình hoặc thông qua người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền yêu hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu trợ giúp pháp lý; được thông tin đầy đủ về quyền, trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý; yêu cầu giữ bí mật về nội dung vụ việc; lựa chọn tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý; thay đổi hoặc rút yêu cầu trợ giúp pháp lý; được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật và quyền khiếu nại, tố cáo về hoạt động trợ giúp pháp lý.
Đồng thời, họ cũng có nghĩa vụ cung cấp giấy tờ chứng minh đủ điều kiện, hợp tác và cung cấp thông tin đầy đủ, tôn trọng người thực hiện trợ giúp pháp lý, không yêu cầu nhiều tổ chức trợ giúp pháp lý cho cùng một vụ việc và chấp hành pháp luật về trợ giúp pháp lý[5].
Về thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý[6], để yêu cầu trợ giúp pháp lý, người nhiễm HIV đủ điều kiện được trợ giúp pháp lý cần nộp hồ sơ cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý gồm: (i) Đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý; (ii) Giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý (trong đó có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc nhiễm HIV và giấy tờ chứng minh khó khăn về tài chính như giấy chứng nhận hộ cận nghèo hoặc quyết định hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng); (iii) Các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến vụ việc pháp lý. Hồ sơ có thể nộp trực tiếp, qua đường bưu điện, fax hoặc bằng phương thức điện tử.
Một số kết quả về công tác trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV
Trong suốt hơn 17 năm triển khai Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và đồng thời thực hiện công tác trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trên phạm vi cả nước.
Về hệ thống tổ chức và đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, trước khi thực hiện sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp (trước ngày 01/7/2025), cả nước có 63 Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cùng với 97 Chi nhánh tại các huyện hoặc liên huyện, đặc biệt ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc giao thông không thuận tiện. Bên cạnh các đơn vị nhà nước, hoạt động trợ giúp pháp lý còn có sự tham gia của 180 tổ chức khác trên toàn quốc, trong đó có 26 tổ chức theo hợp đồng và 174 tổ chức đăng ký tham gia. Đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý cũng ngày càng được tăng cường về số lượng, bao gồm 676 trợ giúp viên pháp lý là công chức của các Trung tâm Trợ giúp pháp lý cấp tỉnh/thành phố và 675 cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý (trong đó có 643 luật sư và 32 cộng tác viên)[7].
Về các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức về quyền được trợ giúp pháp lý, các cơ quan trợ giúp pháp lý từ trung ương đến địa phương đã triển khai nhiều hoạt động truyền thông đa dạng nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng và người dân về quyền được trợ giúp pháp lý. Các hình thức truyền thông bao gồm tổ chức các khóa tập huấn, hội nghị, hội thảo và các chiến dịch truyền thông rộng rãi. Nhiều tài liệu truyền thông như tờ rơi, cẩm nang pháp luật, sổ tay bỏ túi đã được biên soạn và phát hành.
Thông tin về trợ giúp pháp lý cũng được hỗ trợ qua các đường dây nóng và được xử lý trên các phương tiện truyền thông để giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin liên hệ của các tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý. Các bảng thông báo và hộp thông tin về trợ giúp pháp lý được đặt tại các tổ chức trợ giúp pháp lý, Ủy ban nhân dân cấp xã và các cơ sở tạm giữ. Bên cạnh đó, các chương trình, phim tài liệu ngắn, phóng sự và phỏng vấn về trợ giúp pháp lý cũng được phát triển và phát sóng trên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) và các kênh truyền hình khác. Thông tin cũng được đăng tải rộng rãi trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, trang thông tin điện tử trợ giúp pháp lý Việt Nam và các website của Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố. Các trang thông tin điện tử của Tòa án các cấp cũng cung cấp hướng dẫn về trợ giúp pháp lý. Người dân cũng có thể trực tiếp đến các Trung tâm Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc được giới thiệu từ các cơ quan tư pháp, cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể, hoặc các cá nhân có uy tín trong cộng đồng.
Về số liệu vụ việc trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV, từ khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đến hết năm 2023, theo thống kê từ các địa phương, có khoảng 300 lượt người nhiễm HIV có khó khăn về tài chính được trợ giúp pháp lý[8]. Đây chỉ là số liệu được thống kê độc lập diện người nhiễm HIV có khó khăn về tài chính. Các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước khi cử người thực hiện trợ giúp pháp lý cho những người này cũng đã cử những trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý có kiến thức, kinh nghiệm, am hiểu tâm lý của người được trợ giúp pháp lý là người nhiễm HIV. Các vụ việc được trợ giúp pháp lý này khi được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thẩm định, đánh giá thì đều đạt chất lượng trở lên, không có vụ việc nào bị khiếu nại, khiếu kiện về chất lượng. Có những vụ việc mang lại hiệu quả rõ rệt cho người được trợ giúp pháp lý như được giảm hình phạt hoặc tăng mức bồi thường hoặc chuyển tội danh khác nhẹ hơn… trong các vụ việc hình sự, dân sự, hành chính. Thông qua các vụ việc trợ giúp pháp lý cụ thể đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý nói chung, trong đó có người nhiễm HIV có khó khăn về tài chính, qua đó góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật[9].
Khó khăn trong công tác trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV
Thứ nhất, kỳ thị và phân biệt đối xử từ cộng đồng và xã hội.
Tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS là rào cản lớn nhất, không chỉ cản trở người nhiễm HIV tiếp cận các dịch vụ chăm sóc, điều trị, bảo trợ xã hội mà còn cả dịch vụ pháp lý. Nhiều người nhiễm HIV/AIDS không tìm kiếm sự hỗ trợ pháp lý ngay cả khi quyền của họ bị vi phạm, bởi họ cảm thấy mình không được bảo vệ và lo sợ bị cô lập.
Định kiến cộng đồng vẫn còn nặng nề, thể hiện qua các quan điểm như lên án gái mại dâm và người tiêm chích ma túy là nguồn lây lan HIV, coi HIV/AIDS là tệ nạn xã hội hoặc xấu hổ nếu trong gia đình có người nhiễm HIV. Những định kiến này tạo ra một môi trường xã hội đầy áp lực và sợ hãi cho người nhiễm HIV, khiến họ ngần ngại công khai tình trạng của mình và tìm kiếm sự giúp đỡ từ các kênh chính thức. Nỗi sợ bị đánh giá và bị xã hội xa lánh trực tiếp dẫn đến việc người nhiễm HIV ngần ngại tìm kiếm trợ giúp pháp lý, ngay cả khi quyền của họ bị xâm phạm.
Thứ hai, hạn chế về nhận thức pháp luật và tâm lý e ngại của người nhiễm HIV.
Một khó khăn lớn khác là hạn chế về nhận thức pháp luật của chính người nhiễm HIV. Đa số không biết hoặc chỉ nghe nói đến Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS). Bên cạnh sự thiếu hiểu biết, tâm lý sợ và lo ngại công khai danh tính là rào cản tâm lý rất lớn. Nỗi sợ này xuất phát từ định kiến xã hội và nguy cơ bị phân biệt đối xử nếu tình trạng HIV của họ bị tiết lộ. Điều này khiến họ không dám tìm kiếm sự hỗ trợ pháp lý, vì lo ngại rằng quá trình này có thể dẫn đến việc tiết lộ thông tin cá nhân. Đây không chỉ là thiếu kiến thức, mà còn là sự thiếu tin tưởng hoặc nỗi sợ hãi sâu sắc khi tương tác với các hệ thống chính thức do kỳ thị liên quan đến tình trạng của họ.
Thứ ba, vướng mắc trong thủ tục tiếp cận trợ giúp pháp lý.
Mặc dù Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã có những quy định cụ thể về thủ tục, người nhiễm HIV/AIDS vẫn gặp khó khăn về thủ tục khi tiếp cận trợ giúp pháp lý. Quy trình đề nghị và thực hiện trợ giúp pháp lý đôi khi còn phức tạp, đặc biệt là yêu cầu về giấy tờ xác nhận diện người bị nhiễm HIV chứng minh khó khăn về tài chính[10] gây "nản lòng" cho những người vốn đã yếu thế và đang đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe và xã hội. Ngoài ra, địa điểm thực hiện trợ giúp pháp lý thường nằm trong khuôn viên cơ quan nhà nước. Đối với người nhiễm HIV, việc phải đến một cơ quan nhà nước công khai có thể gây e ngại, tăng thêm nỗi sợ bị phát hiện và kỳ thị. Điều này làm giảm động lực của họ trong việc tìm kiếm sự giúp đỡ, ngay cả khi họ biết về quyền của mình.
Thứ tư, hạn chế về nguồn lực và cơ sở vật chất.
Đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung còn thiếu về số lượng và hạn chế về kỹ năng, kinh nghiệm chuyên sâu để xử lý các vụ việc liên quan đến người nhiễm HIV. Đặc biệt, tỷ lệ người thực hiện trợ giúp pháp lý là nữ còn rất ít, thiếu chuyên gia nữ có kỹ năng tiếp xúc và tâm lý làm việc với phụ nữ nhiễm HIV và giải quyết các vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng đến hiệu quả trợ giúp pháp lý, đặc biệt với các trường hợp liên quan đến bạo lực gia đình hoặc buôn bán người mà phụ nữ nhiễm HIV có thể là nạn nhân.
Việc quán triệt và nhận thức về hoạt động trợ giúp pháp lý của các cơ quan, ban ngành, các cấp chính quyền chưa đầy đủ, dẫn đến việc các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý chưa nhận được sự quan tâm, đầu tư đúng mức về nguồn lực, biên chế, cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động. Điều kiện tiếp nhận thông tin hạn chế của người nhiễm HIV, đặc biệt là những người sống ở vùng khó khăn, trình độ dân trí thấp, cũng là một rào cản lớn khiến họ không biết đến tổ chức trợ giúp pháp lý để yêu cầu giúp đỡ.
Giải pháp tăng cường hiệu quả trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV, góp phần chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030
Một là, tăng cường phối hợp liên ngành.
Tạo cơ chế phối hợp hiệu quả giữa ngành Tư pháp và ngành Y tế từ Trung ương đến địa phương. Cơ chế này cần bao gồm việc giới thiệu người nhiễm HIV đến cơ sở trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu và ngược lại, người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể giới thiệu người nhiễm HIV đến cơ sở y tế khi cần chăm sóc sức khỏe. Sự phối hợp này sẽ giúp khắc phục những tồn tại, hạn chế như nhận thức hạn chế về quyền trợ giúp pháp lý, thủ tục phức tạp và vấn đề bảo mật thông tin.
Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Y tế trực tiếp làm công tác phòng, chống HIV/AIDS và đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý về công tác phối hợp trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV. Khi cả hai ngành đều hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc hỗ trợ người nhiễm HIV, quá trình giới thiệu và cung cấp dịch vụ sẽ trở nên thông suốt và hiệu quả hơn.
Hai là, nâng cao năng lực cho đội ngũ thực hiện trợ giúp pháp lý.
Tăng cường năng lực cho người thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về pháp luật dân sự, hành chính, hình sự liên quan đến người nhiễm HIV. Các khóa đào tạo cần tập trung vào các vấn đề nhạy cảm, đặc thù mà người nhiễm HIV thường gặp phải như phân biệt đối xử trong lao động, nhà ở, y tế, hoặc các vấn đề liên quan đến quyền riêng tư.
Tổ chức các hội nghị, diễn đàn để chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn trong việc cung cấp trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV. Việc học hỏi từ những vụ việc trợ giúp pháp lý thành công và những bài học kinh nghiệm sẽ giúp nâng cao chất lượng dịch vụ trên diện rộng.
Tăng cường đào tạo và thu hút các chuyên gia nữ tham gia vào đội ngũ trợ giúp pháp, đặc biệt là những người có kỹ năng tiếp xúc và thấu hiểu tâm lý phụ nữ, giải quyết các vấn đề nhạy cảm liên quan đến giới và HIV. Điều này sẽ giúp tạo ra một môi trường tin cậy và an toàn hơn cho phụ nữ nhiễm HIV khi tìm kiếm sự hỗ trợ.
Ba là, đổi mới và đa dạng hóa hình thức truyền thông, tiếp cận đối tượng.
Đẩy mạnh truyền thông về quyền được trợ giúp pháp lý thông qua nhiều hình thức phù hợp, tiếp tục phát triển và phát sóng các chương trình, phim tài liệu trên các kênh truyền thông đa phương tiện. Sử dụng các nền tảng mạng xã hội, podcast và các ứng dụng di động để đưa thông tin đến gần hơn với các nhóm đối tượng trẻ và có hành vi nguy cơ cao như MSM.
Biên soạn và phát hành các tài liệu truyền thông về quyền trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV có khó khăn về tài chính và các đối tượng nhiễm HIV khác với ngôn ngữ dễ hiểu, hình ảnh minh họa sinh động.
Tổ chức các hội nghị truyền thông trợ giúp pháp lý tại cấp xã, phường, đặc biệt tại các địa điểm có người nhiễm HIV như bệnh viện, phòng khám HIV, trung tâm cai nghiện ma túy, cơ sở giáo dục bắt buộc, trại giam, trại tạm giam và các tổ chức xã hội khác. Việc đưa dịch vụ đến gần người dân hơn và tại các địa điểm ít gây e ngại sẽ giúp tăng cường khả năng tiếp cận.
Huy động sự tham gia của các tổ chức cộng đồng, các nhóm tự lực của người nhiễm HIV trong công tác truyền thông và giới thiệu vụ việc. Các tuyên truyền viên đồng đẳng có thể đóng vai trò cầu nối quan trọng, giúp xây dựng lòng tin và giảm bớt rào cản tâm lý.
Bốn là, đẩy mạnh các biện pháp giảm kỳ thị, phân biệt đối xử.
Triển khai các chiến dịch truyền thông giáo dục kiến thức về HIV/AIDS và pháp luật phòng, chống HIV/AIDS cho toàn dân và cán bộ công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan nhà nước. Các chiến dịch này cần tập trung vào việc thay đổi định kiến, nhấn mạnh rằng HIV/AIDS là một bệnh lý y tế chứ không phải tệ nạn xã hội, người nhiễm HIV có quyền được đối xử bình đẳng và hòa nhập. Bên cạnh đó, cần sự vào cuộc của các cấp chính quyền, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và cộng đồng để xây dựng và duy trì môi trường làm việc, học tập, sinh hoạt không kỳ thị đối với người nhiễm HIV./.
Ảnh: internet
Cục phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, Nhiễm HIV ở nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới - con số đáng báo động, https://vaac.gov.vn/nhiem-hiv-o-nhom-nam-quan-he-tinh-duc-dong-gioi-con-so-dang-bao-dong.html#:~:text=Nam%20quan%20h%E1%BB%87%20t%C3%ACnh%20d%E1%BB%A5c%20%C4%91%E1%BB%93ng%20gi%E1%BB%9Bi%20%C4%91ang%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20c%E1%BA%A3nh,n%C4%83m%202012%20ch%E1%BB%89%20l%C3%A0%204%25, truy cập ngày 11/8/2025.
Bùi nhi, TP.HCM có 52.695 người nhiễm HIV được quản lý, https://tuoitre.vn/tp-hcm-co-52-695-nguoi-nhiem-hiv-duoc-quan-ly-20241130101755638.htm, truy cập ngày 11/8/2025.
Thùy Chi, Bảo đảm cung ứng đủ thuốc ARV điều trị cho hơn 213 nghìn người nhiễm HIV đến cuối 2025, https://tiengchuong.chinhphu.vn/bao-dam-cung-ung-du-thuoc-arv-dieu-tri-cho-hon-213-nghin-nguoi-nhiem-hiv-den-cuoi-2025-113250519185257829.htm, truy cập ngày 11/8/2025.
Điều 8 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Điều 9 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Khoản 1 Điều 29 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Thanh Trịnh, Kết quả cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV, https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/hoi-nhap-phat-trien.aspx?ItemID=1973&l=Nghiencuutraodoi, truy cập ngày 12/8/2025.
Tlđd.
Tlđd.
Khoản 7, khoản 13 Điều 33 Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý.