Có thể nói, trong nền kinh tế nước ta hiện nay mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn nói chung và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên nói riêng là một loại hình doanh nghiệp khá phổ biến được rất nhiều nhà đầu tư lựa chọn do khả năng hạn chế rủi ro cao trong quá trình hoạt động xuất phát từ tính chịu trách nhiệm hữu hạn. Do đó, để tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, thời gian qua pháp luật doanh nghiệp nói chung và pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện. Tuy nhiên, việc triển khai thi hành pháp luật về mô hình công ty này vẫn còn bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Trong bài viết, tác giả khái quát về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; đồng thời đưa ra một số hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên như quy định về góp vốn thành lập doanh nghiệp và trách nhiệm của thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn, về tăng vốn điều lệ, về quản trị công ty, về việc tham gia dự họp của thành viên công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của quá trình đầu tư đó là việc lựa chọn mô hình kinh doanh. Thành lập doanh nghiệp với mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cũng đang là một xu thế được ưu tiên lựa chọn bởi những ưu điểm của nó so với các loại hình doanh nghiệp khác. Để tạo môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, trong thời gian vừa qua, pháp luật về doanh nghiệp nói chung và pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện. Tuy nhiên, một số quy định của pháp luật hiện hành về mô hình công ty này vẫn còn bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung.
1. Khái quát về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1. Về khái niệm
Để vừa thực hiện được mục tiêu, ý tưởng kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu của chính các nhà đầu tư thông qua quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã hội nhưng lại phải giảm thiểu đến mức thấp nhất những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình hoạt động luôn là mong muốn của tất cả các chủ thể kinh doanh. Do đó, sự liên kết và hợp tác kinh doanh cũng là một trong những giải pháp để san sẻ rủi ro và mở rộng quy mô, năng lực cạnh tranh. Các hình thức công ty khác nhau ra đời để đáp ứng nhu cầu liên kết của những nhà đầu tư mong muốn tìm kiếm lợi nhuận thông qua các hoạt động kinh doanh, trong đó có loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Pháp luật của Cộng hòa Pháp quan niệm công ty là một sự liên kết của hai hay nhiều người trên cơ sở hợp đồng hoặc bởi ý chí của chỉ một người nhằm sử dụng tài sản góp vốn cho mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận[1]. Như vậy, với quy định này sẽ có 02 hình thức công ty đó là: (i) Công ty có sự liên kết và (ii) Công ty không có sự liên kết. Ngay từ tên gọi không khó để có thể nhận diện công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên thuộc vào nhóm (i), tức là hình thức công ty có sự liên kết giữa các thành viên.
Ở Việt Nam, khái niệm về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định cụ thể như sau: “Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp, trong đó: a) Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá 50; b) Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 48 của Luật này; c) Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các điều 52, 53 và 54 của Luật này” (khoản 1 Điều 47). Quan niệm này cũng tiếp tục được kế thừa trong Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Có thể nói, trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay, mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn nói chung và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên nói riêng là một loại hình doanh nghiệp khá phổ biến, được rất nhiều nhà đầu tư lựa chọn do khả năng hạn chế rủi ro cao trong quá trình hoạt động xuất phát từ tính chịu trách nhiệm hữu hạn. Theo đó, các thành viên công ty phải trả các khoản nợ của công ty được giới hạn trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, nếu họ đã thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết góp vốn. Về nguyên tắc, thành viên sẽ không phải sử dụng tài sản cá nhân để trả nợ cho công ty. Tính chịu trách nhiệm hữu hạn đã trở thành bức tường che chắn cho thành viên trước yêu cầu đòi nợ của bạn hàng làm ăn với công ty[2].
1.2. Đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Một là, về thành viên: Theo quy định của pháp luật hiện hành, thành viên trong công ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Những cá nhân và tổ chức này có thể mang quốc tịch Việt Nam hoặc nước ngoài nhưng phải thỏa mãn điều kiện không thuộc các trường hợp bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp được quy định tại khoản 02 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Số lượng thành viên công ty tối thiểu phải là 02 và không quá 50 thành viên. Như vậy, trường hợp trong quá trình hoạt động, vì một lý do nào đó dẫn đến số lượng thành viên công ty không đạt mức tối thiểu hoặc vượt quá ngưỡng tối đa nêu trên thì bắt buộc công ty phải lựa chọn hoặc thực hiện quá trình tổ chức lại doanh nghiệp thông qua việc chuyển đổi mô hình doanh nghiệp; hoặc phải tiếp nhận thêm thành viên mới trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu, nếu không sẽ phải giải thể doanh nghiệp (điểm c khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Ngoài ra, cũng cần lưu ý, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là thành viên Hội đồng thành viên và họ đều là người quản lý công ty.
Hai là, về tư cách pháp nhân: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (khoản 2 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014), bởi lẽ, khi đối chiếu với các điều kiện để một tổ chức được công nhận là pháp nhân theo quy định của pháp luật dân sự thì công ty đã thỏa mãn đầy đủ các điều kiện đó.
Ba là, về chế độ trách nhiệm tài sản: Khi nói đến chế độ trách nhiệm tài sản trong loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cần lưu ý để phân biệt giữa chế độ trách nhiệm tài sản của công ty và chế độ trách nhiệm tài sản của thành viên công ty. Theo đó: (i) Đối với công ty là chế độ trách nhiệm vô hạn, có nghĩa là công ty phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình (bao gồm cả vốn điều lệ và các loại tài sản khác hình thành trong quá trình vận hành doanh nghiệp) về mọi hoạt động của công ty; (ii) Đối với các thành viên của công ty là chế độ trách nhiệm hữu hạn. Theo đó, các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp hoặc là trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, nếu thành viên đó đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ góp vốn; hoặc là trong phạm vi số vốn đã cam kết góp đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên do thành viên đó vi phạm nghĩa vụ góp vốn.
Bốn là, về việc chuyển nhượng phần vốn góp: Việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không theo nguyên tắc tự do chuyển nhượng mà có những hạn chế nhất định. Theo đó, khi thành viên công ty muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình trước hết phải dành quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng cho các thành viên còn lại trong công ty. Nếu họ không mua hoặc không mua hết trong thời hạn luật định thì khi đó, thành viên có phần vốn cần chuyển nhượng mới được phép chào bán với cùng điều kiện cho những người không phải là thành viên của công ty. Như vậy, cùng với quy định số lượng thành viên tối đa của công ty (không quá 50 thành viên), đặc điểm về chuyển nhượng phần vốn góp với hàm ý hạn chế sự tham gia của người mới vào công ty cũng phần nào thể hiện được tính chất ổn định của mô hình công ty này.
Năm là, về vấn đề huy động vốn: Để mở rộng quy mô kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì đòi hỏi quy mô vốn của doanh nghiệp cũng phải đủ mạnh. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, không chỉ riêng công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên mà tất cả các loại hình doanh nghiệp khác đều có quyền huy động vốn hay gọi vốn đầu tư. Tuy nhiên, cách thức huy động vốn của các chủ thể là không đồng nhất. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, việc huy động vốn tuy có bị hạn chế hơn so với công ty cổ phần khi không được quyền phát hành cổ phần (trừ trường hợp để chuyển đổi thành công ty cổ phần - khoản 3 Điều 46 Luật Doanh nghiệp năm 2020) nhưng công ty vẫn có thể được thực hiện việc huy động vốn thông qua các cách thức khác như tăng vốn điều lệ bằng cách tăng vốn góp của thành viên và/hoặc tiếp nhận vốn góp của thành viên mới; vay vốn từ các tổ chức, cá nhân, thông qua các hợp đồng vay, hợp đồng tín dụng hoặc thông qua hoạt động phát hành trái phiếu nếu đủ điều kiện phát hành theo quy định của pháp luật.
2. Một số hạn chế, bất cập trong quy định hiện hành về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và kiến nghị hoàn thiện
Một là, quy định về góp vốn thành lập doanh nghiệp và trách nhiệm của thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn. Luật Doanh nghiệp hiện hành đã đưa ra khái niệm về góp vốn và các trường hợp góp vốn vào doanh nghiệp. Theo đó, góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập (khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Dù góp vốn ở thời điểm trước hay sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi đã xác lập cam kết góp vốn hoặc thỏa thuận góp vốn thì nó đều trở thành nghĩa vụ của chủ thể tham gia góp vốn và việc thực hiện đúng, đầy đủ hay không nghĩa vụ này sẽ gắn liền với những quyền lợi, trách nhiệm của chủ thể đó.
Ở mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Điều 48 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định khá cụ thể về thời hạn thực hiện nghĩa vụ góp vốn cũng như chế tài đối với thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn trong trường hợp góp vốn tại thời điểm thành lập công ty và bất cập cũng nằm ở chính quy định về vấn đề này. Theo đó, sau thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà có thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết thì: (i) Thành viên chưa góp vốn theo cam kết đương nhiên không còn là thành viên công ty; (ii) Thành viên chưa góp vốn đủ phần vốn góp như đã cam kết có các quyền tương ứng với phần vốn đã góp… và công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên bằng vốn đã góp trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ phần vốn góp. Các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên. Điểm bất hợp lý trong quy định này chính là cách thức xác định phạm vi trách nhiệm của thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 48 thì ngay tại thời điểm sau khi hết thời hạn góp vốn (90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp), thành viên chưa góp vốn không còn là thành viên công ty và thành viên chưa góp đủ số vốn như đã cam kết thì chỉ có quyền tương ứng với số vốn đã góp nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm tương ứng với số vốn đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trước thời điểm đăng ký thay đổi vốn điều lệ. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 48 thì công ty có đến 60 ngày để thực hiện việc đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ và như vậy thì trong khoảng thời gian 60 ngày đó chắc chắn sẽ có không ít các hợp đồng, giao dịch của công ty được xác lập, ký kết, thực hiện dẫn đến sự thay đổi về nghĩa vụ tài chính của công ty theo chiều hướng tăng lên. Do vậy, việc quy định người không còn là thành viên công ty và thành viên chỉ hưởng quyền tương ứng với phần vốn đã góp phải chịu trách nhiệm tương ứng đối với phần vốn đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh cả trong quãng thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên sẽ là không công bằng, không bảo vệ được quyền lợi cho các nhà đầu tư tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp. Về vấn đề này, quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 vẫn không có sự thay đổi về bản chất.
Kiến nghị: Để có thể bảo đảm được quyền lợi cho các nhà đầu tư khi tham gia góp vốn thành lập công ty nói chung và thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên nói riêng, đồng thời, nhằm khắc phục điểm bất hợp lý trong quy định của pháp luật như đã phân tích ở trên đòi hỏi cần phải sửa đổi quy định của pháp luật về vấn đề này theo hướng thay đổi cách xác định phạm vi chịu trách nhiệm của thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ phần vốn góp như đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty. Theo đó, các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết chỉ phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời hạn phải hoàn thành nghĩa vụ góp vốn đã cam kết khi đăng kí thành lập doanh nghiệp (90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp).
Hai là, quy định về tăng vốn điều lệ. Các chủ thể kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp nói riêng để mở rộng sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường thì yêu cầu tăng vốn là cần thiết. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Luật Doanh nghiệp năm 2014 tại khoản 1 Điều 68 có quy định hai trường hợp tăng vốn điều lệ của công ty gồm: (i) Tăng vốn góp của thành viên; (ii) Tiếp nhận vốn góp của thành viên mới. Tuy nhiên, điểm bất cập trong quy định về vấn đề này là ở chỗ tại khoản 2 Điều 68 của Luật đã quy định cụ thể đối với trường hợp tăng vốn điều lệ thông qua hình thức tăng vốn góp của thành viên. Theo đó, vốn góp thêm được phân chia cho các thành viên theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong vốn điều lệ công ty. Như vậy, với quy định này thì các thành viên sẽ không được quyền thỏa thuận về tỷ lệ vốn góp thêm mà họ chỉ được quyền thỏa thuận về tỷ lệ đối với số vốn góp thêm của thành viên phản đối quyết định tăng thêm vốn điều lệ và thành viên đó không góp thêm vốn. Có thể nói, quy định này thể hiện tính chất cứng nhắc, thiếu linh hoạt, chưa thực sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các thành viên công ty và có thiên hướng can thiệp sâu vào nội bộ công ty, thậm chí làm mất thời gian và phức tạp hóa quá trình tăng vốn điều lệ công ty, bởi lẽ, trên thực tế, không phải lúc nào các nhà đầu tư cũng có sẵn, đủ khả năng tài chính cũng như có nhu cầu bỏ thêm vốn vào kinh doanh. Do đó, việc pháp luật ấn định tỷ lệ vốn góp thêm tương ứng với phần vốn góp của thành viên trong vốn điều lệ là không hợp lý. Mặc dù có quy định về quyền chuyển nhượng quyền góp vốn trong trường hợp này nhưng lại phải theo thứ tự ưu tiên quy định tại Điều 53 Luật Doanh nghiệp năm 2014 dẫn đến thời gian để thực hiện quá trình tăng vốn điều lệ có thể bị kéo dài làm ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng chính là quy định vẫn được giữ nguyên tại Điều 68 của Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Kiến nghị: Để khắc phục bất cập đã được phân tích ở trên, cần sửa đổi quy định về vấn đề này theo hướng trao cho các thành viên trong công ty quyền thỏa thuận về tỷ lệ vốn góp thêm nhằm đáp ứng được nhu cầu và khả năng tài chính của mỗi người. Theo đó quy định: Trường hợp tăng vốn góp của thành viên thì vốn góp thêm có thể được phân chia cho các thành viên theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong vốn điều lệ công ty hoặc một tỷ lệ khác do các thành viên tự thỏa thuận.
Ba là, quy định về quản trị công ty. Cũng giống với các loại hình công ty khác, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là một tổ chức, do vậy, nó cần được quản trị. Công ty muốn cạnh tranh thành công thì phải hoạt động hiệu quả, điều này tùy thuộc nhiều vào việc quản trị công ty. Quản trị công ty là một quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ sở hữu hoặc các đồng chủ sở hữu công ty lên đối tượng quản trị, sử dụng một cách tốt nhất những tiềm năng và cơ hội để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội. Có thể nói, quản trị công ty tốt là nền tảng cho sự phát triển lâu dài của các doanh nghiệp lớn. Ngược lại, quản trị không tốt thường dẫn đến những hậu quả xấu, thậm chí phá sản công ty. Dưới góc độ pháp lý có thể hiểu, quản trị công ty là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát công ty. Như vậy, có thể nhận thấy chức năng của quản trị công ty bao gồm kế hoạch hóa, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát.
Điều 55 Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã có những quy định khá rõ ràng, góp phần tạo lập khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh về quản trị công ty nói chung trong đó có công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên với cơ cấu tổ chức của công ty gồm: Hội đồng thành viên; Chủ tịch hội đồng thành viên; Giám đốc/Tổng giám đốc và Ban kiểm soát (bắt buộc trong trường hợp công ty có từ 11 thành viên trở lên). Tuy nhiên, điểm bất cập thể hiện ở chỗ pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn của kiểm soát viên cũng như các quy định về thành lập, quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát mà tất cả những vấn đề liên quan đến Ban kiểm soát sẽ do Điều lệ công ty quy định. Nhìn ở góc độ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thì quy định tại Điều 55 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thể hiện tính linh hoạt khi tôn trọng và trao quyền tự quyết cho các thành viên công ty. Nhưng nếu xem xét dưới khía cạnh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thành viên công ty cũng như hạn chế các tranh chấp nội bộ công ty phát sinh thì nó sẽ không hợp lý. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì tất cả các thành viên Hội đồng thành viên trong công ty đều là người quản lý doanh nghiệp. Trong khi đó, Hội đồng thành viên gồm tất cả các thành viên công ty. Giả sử, trong Điều lệ công ty quy định thành viên Ban kiểm soát là những người được bầu trong số các thành viên của Hội đồng thành viên và không hạn chế việc thành viên Ban kiểm soát có mối quan hệ thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột với Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc/Tổng giám đốc của công ty… Lúc này, câu hỏi đặt ra là hiệu quả quản trị công ty sẽ ra sao? Vấn đề lợi ích nhóm liệu có phát sinh không? Quyền và lợi ích của các thành viên khác trong công ty sẽ được bảo vệ như thế nào? Dựa vào đâu để có thể bảo đảm rằng Ban kiểm soát trong trường hợp này sẽ thực hiện đúng với chức năng vốn có của nó là kiểm tra, giám sát để bảo đảm cho các hoạt động được thực hiện đúng pháp luật, điều lệ, nội quy, quy chế, kế hoạch của công ty…
Để khắc phục những hạn chế đó, quy định về vấn đề này trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã được sửa đổi, bổ sung khá toàn diện. Cụ thể: (i) Trong cơ cấu tổ chức quản lý của công ty, việc thành lập Ban kiểm soát chỉ bắt buộc đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp nhà nước và công ty con của doanh nghiệp nhà nước, còn đối với các trường hợp khác sẽ do công ty quyết định (khoản 1, khoản 2 Điều 54); (ii) Quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm… của Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát và kiểm soát viên (Điều 65); (iii) Bổ sung quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Theo đó, công ty phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật của công ty (khoản 3 Điều 54 Luật Doanh nghiệp năm 2020).
Ngoài ra, cũng cần xem xét lại về tính khả thi của quy định tại khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và tiếp tục được kế thừa tại khoản 24 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 khi quy định người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là thành viên Hội đồng thành viên vì thực tế chỉ cần công ty có trên 10 thành viên mà chưa phải là công ty có đến 50 thành viên thì việc quản lý, điều hành doanh nghiệp với Hội đồng thành viên có sự tham gia của tất cả các thành viên trở nên khó khăn khi thảo luận, thống nhất ý kiến về các công việc điều hành.
Kiến nghị: Để tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi giúp cho hoạt động quản lý, điều hành công ty đạt hiệu quả, từ đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các thành viên công ty đòi hỏi quy định về người quản lý doanh nghiệp cần được sửa đổi theo hướng người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không phải là tất cả các thành viên Hội đồng thành viên mà xác định, giới hạn chủ thể quản lý. Chẳng hạn như, quy định người quản lý công ty là Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc/Tổng giám đốc.
Bốn là, quy định về việc tham gia dự họp của thành viên công ty. Hiện nay, các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về vấn đề tham gia dự họp Hội đồng thành viên của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên đang có sự thiếu thống nhất giữa các quy định với nhau. Cụ thể:
Tại khoản 1 Điều 50 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định việc tham dự họp Hội đồng thành viên là quyền của thành viên và ở Điều 51 khi quy định về nghĩa vụ của thành viên thì không có quy định về nghĩa vụ dự họp Hội đồng thành viên theo triệu tập của Chủ tịch Hội đồng thành viên. Ngoài ra, Điều 59 cũng quy định khá cụ thể về điều kiện và thể thức để tiến hành họp Hội đồng thành viên. Theo đó, (i) Cuộc họp Hội đồng thành viên được tiến hành khi có số thành viên dự họp sở hữu ít nhất 65% vốn điều lệ; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định; (ii) Trường hợp Điều lệ không quy định hoặc không có quy định khác, triệu tập họp Hội đồng thành viên trong trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật Doanh nghiệp thì được thực hiện như sau: a) Triệu tập họp lần thứ hai phải được thực hiện trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ nhất. Cuộc họp Hội đồng thành viên triệu tập lần thứ hai được tiến hành khi có số thành viên dự họp sở hữu ít nhất 50% vốn điều lệ. b) Trường hợp cuộc họp lần thứ hai không đủ điều kiện tiến hành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều này thì được triệu tập họp lần thứ ba trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày dự định họp lần thứ hai. Trường hợp này, cuộc họp Hội đồng thành viên được tiến hành không phụ thuộc số thành viên dự họp và số vốn điều lệ được đại diện bởi số thành viên dự họp. Như vậy, với các quy định của pháp luật hiện hành nêu trên cho thấy việc tham gia dự họp Hội đồng thành viên của thành viên công ty đó là quyền và do đó, họ có thể lựa chọn tham gia (sử dụng quyền) hoặc không tham gia (từ bỏ quyền) dự họp của mình.
Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 59 Luật Doanh nghiệp năm 2014 lại quy định: Thành viên, người đại diện theo ủy quyền của thành viên phải tham dự và biểu quyết tại cuộc họp Hội đồng thành viên. Quy định này dẫn đến cách hiểu, việc tham dự họp Hội đồng thành viên của thành viên công ty là một nghĩa vụ. Vậy câu hỏi đặt ra là, nếu thành viên hoặc người đại diện theo ủy quyền của thành viên không tham gia dự họp thì có bị coi là vi phạm pháp luật hay không?
Về vấn đề này, đối chiếu với các quy định về việc tham gia dự họp của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên trong Luật Doanh nghiệp năm 2020, có thể thấy rằng, Luật vẫn tiếp tục kế thừa quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 mà chưa có sự sửa đổi, bổ sung.
Kiến nghị: Để có thể bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích của thành viên công ty cũng như bảo đảm tính thống nhất giữa các quy định của pháp luật về vấn đề tham gia dự họp Hội đồng thành viên của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, pháp luật doanh nghiệp cần sửa đổi theo hướng quy định việc tham gia dự họp Hội đồng thành viên vừa là quyền và cũng vừa là nghĩa vụ của thành viên.
[1]. Điều 1832 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804.
[2]. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình Luật Kinh tế tập 1: Luật Doanh nghiệp Tình huống - Phân tích - Bình luận, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 67.
Trong bài viết, tác giả khái quát về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; đồng thời đưa ra một số hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên như quy định về góp vốn thành lập doanh nghiệp và trách nhiệm của thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn, về tăng vốn điều lệ, về quản trị công ty, về việc tham gia dự họp của thành viên công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của quá trình đầu tư đó là việc lựa chọn mô hình kinh doanh. Thành lập doanh nghiệp với mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cũng đang là một xu thế được ưu tiên lựa chọn bởi những ưu điểm của nó so với các loại hình doanh nghiệp khác. Để tạo môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, trong thời gian vừa qua, pháp luật về doanh nghiệp nói chung và pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện. Tuy nhiên, một số quy định của pháp luật hiện hành về mô hình công ty này vẫn còn bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung.
1. Khái quát về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1. Về khái niệm
Để vừa thực hiện được mục tiêu, ý tưởng kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu của chính các nhà đầu tư thông qua quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã hội nhưng lại phải giảm thiểu đến mức thấp nhất những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình hoạt động luôn là mong muốn của tất cả các chủ thể kinh doanh. Do đó, sự liên kết và hợp tác kinh doanh cũng là một trong những giải pháp để san sẻ rủi ro và mở rộng quy mô, năng lực cạnh tranh. Các hình thức công ty khác nhau ra đời để đáp ứng nhu cầu liên kết của những nhà đầu tư mong muốn tìm kiếm lợi nhuận thông qua các hoạt động kinh doanh, trong đó có loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Pháp luật của Cộng hòa Pháp quan niệm công ty là một sự liên kết của hai hay nhiều người trên cơ sở hợp đồng hoặc bởi ý chí của chỉ một người nhằm sử dụng tài sản góp vốn cho mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận[1]. Như vậy, với quy định này sẽ có 02 hình thức công ty đó là: (i) Công ty có sự liên kết và (ii) Công ty không có sự liên kết. Ngay từ tên gọi không khó để có thể nhận diện công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên thuộc vào nhóm (i), tức là hình thức công ty có sự liên kết giữa các thành viên.
Ở Việt Nam, khái niệm về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định cụ thể như sau: “Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp, trong đó: a) Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá 50; b) Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 48 của Luật này; c) Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các điều 52, 53 và 54 của Luật này” (khoản 1 Điều 47). Quan niệm này cũng tiếp tục được kế thừa trong Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Có thể nói, trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay, mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn nói chung và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên nói riêng là một loại hình doanh nghiệp khá phổ biến, được rất nhiều nhà đầu tư lựa chọn do khả năng hạn chế rủi ro cao trong quá trình hoạt động xuất phát từ tính chịu trách nhiệm hữu hạn. Theo đó, các thành viên công ty phải trả các khoản nợ của công ty được giới hạn trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, nếu họ đã thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết góp vốn. Về nguyên tắc, thành viên sẽ không phải sử dụng tài sản cá nhân để trả nợ cho công ty. Tính chịu trách nhiệm hữu hạn đã trở thành bức tường che chắn cho thành viên trước yêu cầu đòi nợ của bạn hàng làm ăn với công ty[2].
1.2. Đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Một là, về thành viên: Theo quy định của pháp luật hiện hành, thành viên trong công ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Những cá nhân và tổ chức này có thể mang quốc tịch Việt Nam hoặc nước ngoài nhưng phải thỏa mãn điều kiện không thuộc các trường hợp bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp được quy định tại khoản 02 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Số lượng thành viên công ty tối thiểu phải là 02 và không quá 50 thành viên. Như vậy, trường hợp trong quá trình hoạt động, vì một lý do nào đó dẫn đến số lượng thành viên công ty không đạt mức tối thiểu hoặc vượt quá ngưỡng tối đa nêu trên thì bắt buộc công ty phải lựa chọn hoặc thực hiện quá trình tổ chức lại doanh nghiệp thông qua việc chuyển đổi mô hình doanh nghiệp; hoặc phải tiếp nhận thêm thành viên mới trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu, nếu không sẽ phải giải thể doanh nghiệp (điểm c khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Ngoài ra, cũng cần lưu ý, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là thành viên Hội đồng thành viên và họ đều là người quản lý công ty.
Hai là, về tư cách pháp nhân: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (khoản 2 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014), bởi lẽ, khi đối chiếu với các điều kiện để một tổ chức được công nhận là pháp nhân theo quy định của pháp luật dân sự thì công ty đã thỏa mãn đầy đủ các điều kiện đó.
Ba là, về chế độ trách nhiệm tài sản: Khi nói đến chế độ trách nhiệm tài sản trong loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cần lưu ý để phân biệt giữa chế độ trách nhiệm tài sản của công ty và chế độ trách nhiệm tài sản của thành viên công ty. Theo đó: (i) Đối với công ty là chế độ trách nhiệm vô hạn, có nghĩa là công ty phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình (bao gồm cả vốn điều lệ và các loại tài sản khác hình thành trong quá trình vận hành doanh nghiệp) về mọi hoạt động của công ty; (ii) Đối với các thành viên của công ty là chế độ trách nhiệm hữu hạn. Theo đó, các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp hoặc là trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, nếu thành viên đó đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ góp vốn; hoặc là trong phạm vi số vốn đã cam kết góp đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên do thành viên đó vi phạm nghĩa vụ góp vốn.
Bốn là, về việc chuyển nhượng phần vốn góp: Việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không theo nguyên tắc tự do chuyển nhượng mà có những hạn chế nhất định. Theo đó, khi thành viên công ty muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình trước hết phải dành quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng cho các thành viên còn lại trong công ty. Nếu họ không mua hoặc không mua hết trong thời hạn luật định thì khi đó, thành viên có phần vốn cần chuyển nhượng mới được phép chào bán với cùng điều kiện cho những người không phải là thành viên của công ty. Như vậy, cùng với quy định số lượng thành viên tối đa của công ty (không quá 50 thành viên), đặc điểm về chuyển nhượng phần vốn góp với hàm ý hạn chế sự tham gia của người mới vào công ty cũng phần nào thể hiện được tính chất ổn định của mô hình công ty này.
Năm là, về vấn đề huy động vốn: Để mở rộng quy mô kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì đòi hỏi quy mô vốn của doanh nghiệp cũng phải đủ mạnh. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, không chỉ riêng công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên mà tất cả các loại hình doanh nghiệp khác đều có quyền huy động vốn hay gọi vốn đầu tư. Tuy nhiên, cách thức huy động vốn của các chủ thể là không đồng nhất. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, việc huy động vốn tuy có bị hạn chế hơn so với công ty cổ phần khi không được quyền phát hành cổ phần (trừ trường hợp để chuyển đổi thành công ty cổ phần - khoản 3 Điều 46 Luật Doanh nghiệp năm 2020) nhưng công ty vẫn có thể được thực hiện việc huy động vốn thông qua các cách thức khác như tăng vốn điều lệ bằng cách tăng vốn góp của thành viên và/hoặc tiếp nhận vốn góp của thành viên mới; vay vốn từ các tổ chức, cá nhân, thông qua các hợp đồng vay, hợp đồng tín dụng hoặc thông qua hoạt động phát hành trái phiếu nếu đủ điều kiện phát hành theo quy định của pháp luật.
2. Một số hạn chế, bất cập trong quy định hiện hành về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và kiến nghị hoàn thiện
Một là, quy định về góp vốn thành lập doanh nghiệp và trách nhiệm của thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn. Luật Doanh nghiệp hiện hành đã đưa ra khái niệm về góp vốn và các trường hợp góp vốn vào doanh nghiệp. Theo đó, góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập (khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Dù góp vốn ở thời điểm trước hay sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi đã xác lập cam kết góp vốn hoặc thỏa thuận góp vốn thì nó đều trở thành nghĩa vụ của chủ thể tham gia góp vốn và việc thực hiện đúng, đầy đủ hay không nghĩa vụ này sẽ gắn liền với những quyền lợi, trách nhiệm của chủ thể đó.
Ở mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Điều 48 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định khá cụ thể về thời hạn thực hiện nghĩa vụ góp vốn cũng như chế tài đối với thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn trong trường hợp góp vốn tại thời điểm thành lập công ty và bất cập cũng nằm ở chính quy định về vấn đề này. Theo đó, sau thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà có thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết thì: (i) Thành viên chưa góp vốn theo cam kết đương nhiên không còn là thành viên công ty; (ii) Thành viên chưa góp vốn đủ phần vốn góp như đã cam kết có các quyền tương ứng với phần vốn đã góp… và công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên bằng vốn đã góp trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ phần vốn góp. Các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên. Điểm bất hợp lý trong quy định này chính là cách thức xác định phạm vi trách nhiệm của thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 48 thì ngay tại thời điểm sau khi hết thời hạn góp vốn (90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp), thành viên chưa góp vốn không còn là thành viên công ty và thành viên chưa góp đủ số vốn như đã cam kết thì chỉ có quyền tương ứng với số vốn đã góp nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm tương ứng với số vốn đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trước thời điểm đăng ký thay đổi vốn điều lệ. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 48 thì công ty có đến 60 ngày để thực hiện việc đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ và như vậy thì trong khoảng thời gian 60 ngày đó chắc chắn sẽ có không ít các hợp đồng, giao dịch của công ty được xác lập, ký kết, thực hiện dẫn đến sự thay đổi về nghĩa vụ tài chính của công ty theo chiều hướng tăng lên. Do vậy, việc quy định người không còn là thành viên công ty và thành viên chỉ hưởng quyền tương ứng với phần vốn đã góp phải chịu trách nhiệm tương ứng đối với phần vốn đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh cả trong quãng thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên sẽ là không công bằng, không bảo vệ được quyền lợi cho các nhà đầu tư tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp. Về vấn đề này, quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 vẫn không có sự thay đổi về bản chất.
Kiến nghị: Để có thể bảo đảm được quyền lợi cho các nhà đầu tư khi tham gia góp vốn thành lập công ty nói chung và thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên nói riêng, đồng thời, nhằm khắc phục điểm bất hợp lý trong quy định của pháp luật như đã phân tích ở trên đòi hỏi cần phải sửa đổi quy định của pháp luật về vấn đề này theo hướng thay đổi cách xác định phạm vi chịu trách nhiệm của thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ phần vốn góp như đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty. Theo đó, các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết chỉ phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời hạn phải hoàn thành nghĩa vụ góp vốn đã cam kết khi đăng kí thành lập doanh nghiệp (90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp).
Hai là, quy định về tăng vốn điều lệ. Các chủ thể kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp nói riêng để mở rộng sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường thì yêu cầu tăng vốn là cần thiết. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Luật Doanh nghiệp năm 2014 tại khoản 1 Điều 68 có quy định hai trường hợp tăng vốn điều lệ của công ty gồm: (i) Tăng vốn góp của thành viên; (ii) Tiếp nhận vốn góp của thành viên mới. Tuy nhiên, điểm bất cập trong quy định về vấn đề này là ở chỗ tại khoản 2 Điều 68 của Luật đã quy định cụ thể đối với trường hợp tăng vốn điều lệ thông qua hình thức tăng vốn góp của thành viên. Theo đó, vốn góp thêm được phân chia cho các thành viên theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong vốn điều lệ công ty. Như vậy, với quy định này thì các thành viên sẽ không được quyền thỏa thuận về tỷ lệ vốn góp thêm mà họ chỉ được quyền thỏa thuận về tỷ lệ đối với số vốn góp thêm của thành viên phản đối quyết định tăng thêm vốn điều lệ và thành viên đó không góp thêm vốn. Có thể nói, quy định này thể hiện tính chất cứng nhắc, thiếu linh hoạt, chưa thực sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các thành viên công ty và có thiên hướng can thiệp sâu vào nội bộ công ty, thậm chí làm mất thời gian và phức tạp hóa quá trình tăng vốn điều lệ công ty, bởi lẽ, trên thực tế, không phải lúc nào các nhà đầu tư cũng có sẵn, đủ khả năng tài chính cũng như có nhu cầu bỏ thêm vốn vào kinh doanh. Do đó, việc pháp luật ấn định tỷ lệ vốn góp thêm tương ứng với phần vốn góp của thành viên trong vốn điều lệ là không hợp lý. Mặc dù có quy định về quyền chuyển nhượng quyền góp vốn trong trường hợp này nhưng lại phải theo thứ tự ưu tiên quy định tại Điều 53 Luật Doanh nghiệp năm 2014 dẫn đến thời gian để thực hiện quá trình tăng vốn điều lệ có thể bị kéo dài làm ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng chính là quy định vẫn được giữ nguyên tại Điều 68 của Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Kiến nghị: Để khắc phục bất cập đã được phân tích ở trên, cần sửa đổi quy định về vấn đề này theo hướng trao cho các thành viên trong công ty quyền thỏa thuận về tỷ lệ vốn góp thêm nhằm đáp ứng được nhu cầu và khả năng tài chính của mỗi người. Theo đó quy định: Trường hợp tăng vốn góp của thành viên thì vốn góp thêm có thể được phân chia cho các thành viên theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong vốn điều lệ công ty hoặc một tỷ lệ khác do các thành viên tự thỏa thuận.
Ba là, quy định về quản trị công ty. Cũng giống với các loại hình công ty khác, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là một tổ chức, do vậy, nó cần được quản trị. Công ty muốn cạnh tranh thành công thì phải hoạt động hiệu quả, điều này tùy thuộc nhiều vào việc quản trị công ty. Quản trị công ty là một quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ sở hữu hoặc các đồng chủ sở hữu công ty lên đối tượng quản trị, sử dụng một cách tốt nhất những tiềm năng và cơ hội để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội. Có thể nói, quản trị công ty tốt là nền tảng cho sự phát triển lâu dài của các doanh nghiệp lớn. Ngược lại, quản trị không tốt thường dẫn đến những hậu quả xấu, thậm chí phá sản công ty. Dưới góc độ pháp lý có thể hiểu, quản trị công ty là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát công ty. Như vậy, có thể nhận thấy chức năng của quản trị công ty bao gồm kế hoạch hóa, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát.
Điều 55 Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã có những quy định khá rõ ràng, góp phần tạo lập khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh về quản trị công ty nói chung trong đó có công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên với cơ cấu tổ chức của công ty gồm: Hội đồng thành viên; Chủ tịch hội đồng thành viên; Giám đốc/Tổng giám đốc và Ban kiểm soát (bắt buộc trong trường hợp công ty có từ 11 thành viên trở lên). Tuy nhiên, điểm bất cập thể hiện ở chỗ pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn của kiểm soát viên cũng như các quy định về thành lập, quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát mà tất cả những vấn đề liên quan đến Ban kiểm soát sẽ do Điều lệ công ty quy định. Nhìn ở góc độ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thì quy định tại Điều 55 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thể hiện tính linh hoạt khi tôn trọng và trao quyền tự quyết cho các thành viên công ty. Nhưng nếu xem xét dưới khía cạnh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thành viên công ty cũng như hạn chế các tranh chấp nội bộ công ty phát sinh thì nó sẽ không hợp lý. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì tất cả các thành viên Hội đồng thành viên trong công ty đều là người quản lý doanh nghiệp. Trong khi đó, Hội đồng thành viên gồm tất cả các thành viên công ty. Giả sử, trong Điều lệ công ty quy định thành viên Ban kiểm soát là những người được bầu trong số các thành viên của Hội đồng thành viên và không hạn chế việc thành viên Ban kiểm soát có mối quan hệ thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột với Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc/Tổng giám đốc của công ty… Lúc này, câu hỏi đặt ra là hiệu quả quản trị công ty sẽ ra sao? Vấn đề lợi ích nhóm liệu có phát sinh không? Quyền và lợi ích của các thành viên khác trong công ty sẽ được bảo vệ như thế nào? Dựa vào đâu để có thể bảo đảm rằng Ban kiểm soát trong trường hợp này sẽ thực hiện đúng với chức năng vốn có của nó là kiểm tra, giám sát để bảo đảm cho các hoạt động được thực hiện đúng pháp luật, điều lệ, nội quy, quy chế, kế hoạch của công ty…
Để khắc phục những hạn chế đó, quy định về vấn đề này trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã được sửa đổi, bổ sung khá toàn diện. Cụ thể: (i) Trong cơ cấu tổ chức quản lý của công ty, việc thành lập Ban kiểm soát chỉ bắt buộc đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp nhà nước và công ty con của doanh nghiệp nhà nước, còn đối với các trường hợp khác sẽ do công ty quyết định (khoản 1, khoản 2 Điều 54); (ii) Quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm… của Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát và kiểm soát viên (Điều 65); (iii) Bổ sung quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Theo đó, công ty phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật của công ty (khoản 3 Điều 54 Luật Doanh nghiệp năm 2020).
Ngoài ra, cũng cần xem xét lại về tính khả thi của quy định tại khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và tiếp tục được kế thừa tại khoản 24 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 khi quy định người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là thành viên Hội đồng thành viên vì thực tế chỉ cần công ty có trên 10 thành viên mà chưa phải là công ty có đến 50 thành viên thì việc quản lý, điều hành doanh nghiệp với Hội đồng thành viên có sự tham gia của tất cả các thành viên trở nên khó khăn khi thảo luận, thống nhất ý kiến về các công việc điều hành.
Kiến nghị: Để tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi giúp cho hoạt động quản lý, điều hành công ty đạt hiệu quả, từ đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các thành viên công ty đòi hỏi quy định về người quản lý doanh nghiệp cần được sửa đổi theo hướng người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không phải là tất cả các thành viên Hội đồng thành viên mà xác định, giới hạn chủ thể quản lý. Chẳng hạn như, quy định người quản lý công ty là Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc/Tổng giám đốc.
Bốn là, quy định về việc tham gia dự họp của thành viên công ty. Hiện nay, các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về vấn đề tham gia dự họp Hội đồng thành viên của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên đang có sự thiếu thống nhất giữa các quy định với nhau. Cụ thể:
Tại khoản 1 Điều 50 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định việc tham dự họp Hội đồng thành viên là quyền của thành viên và ở Điều 51 khi quy định về nghĩa vụ của thành viên thì không có quy định về nghĩa vụ dự họp Hội đồng thành viên theo triệu tập của Chủ tịch Hội đồng thành viên. Ngoài ra, Điều 59 cũng quy định khá cụ thể về điều kiện và thể thức để tiến hành họp Hội đồng thành viên. Theo đó, (i) Cuộc họp Hội đồng thành viên được tiến hành khi có số thành viên dự họp sở hữu ít nhất 65% vốn điều lệ; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định; (ii) Trường hợp Điều lệ không quy định hoặc không có quy định khác, triệu tập họp Hội đồng thành viên trong trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật Doanh nghiệp thì được thực hiện như sau: a) Triệu tập họp lần thứ hai phải được thực hiện trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ nhất. Cuộc họp Hội đồng thành viên triệu tập lần thứ hai được tiến hành khi có số thành viên dự họp sở hữu ít nhất 50% vốn điều lệ. b) Trường hợp cuộc họp lần thứ hai không đủ điều kiện tiến hành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều này thì được triệu tập họp lần thứ ba trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày dự định họp lần thứ hai. Trường hợp này, cuộc họp Hội đồng thành viên được tiến hành không phụ thuộc số thành viên dự họp và số vốn điều lệ được đại diện bởi số thành viên dự họp. Như vậy, với các quy định của pháp luật hiện hành nêu trên cho thấy việc tham gia dự họp Hội đồng thành viên của thành viên công ty đó là quyền và do đó, họ có thể lựa chọn tham gia (sử dụng quyền) hoặc không tham gia (từ bỏ quyền) dự họp của mình.
Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 59 Luật Doanh nghiệp năm 2014 lại quy định: Thành viên, người đại diện theo ủy quyền của thành viên phải tham dự và biểu quyết tại cuộc họp Hội đồng thành viên. Quy định này dẫn đến cách hiểu, việc tham dự họp Hội đồng thành viên của thành viên công ty là một nghĩa vụ. Vậy câu hỏi đặt ra là, nếu thành viên hoặc người đại diện theo ủy quyền của thành viên không tham gia dự họp thì có bị coi là vi phạm pháp luật hay không?
Về vấn đề này, đối chiếu với các quy định về việc tham gia dự họp của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên trong Luật Doanh nghiệp năm 2020, có thể thấy rằng, Luật vẫn tiếp tục kế thừa quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 mà chưa có sự sửa đổi, bổ sung.
Kiến nghị: Để có thể bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích của thành viên công ty cũng như bảo đảm tính thống nhất giữa các quy định của pháp luật về vấn đề tham gia dự họp Hội đồng thành viên của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, pháp luật doanh nghiệp cần sửa đổi theo hướng quy định việc tham gia dự họp Hội đồng thành viên vừa là quyền và cũng vừa là nghĩa vụ của thành viên.
TS. Khúc Thị Phương Nhung
Đại học Kiểm sát Hà Nội
Đại học Kiểm sát Hà Nội
[1]. Điều 1832 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804.
[2]. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình Luật Kinh tế tập 1: Luật Doanh nghiệp Tình huống - Phân tích - Bình luận, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 67.