1. Dẫn nhập
Hoạt động phòng, chống tham nhũng được hiểu là các hoạt động phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng[1]. Trên thực tế, có hai nhóm giải pháp phòng, chống tham nhũng, phòng ngừa thường là giải pháp được ưu tiên hàng đầu. “Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, việc kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa và phát hiện để trừng trị nghiêm khắc những kẻ tham nhũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì, trong đấu tranh chống tham nhũng, nếu chỉ chú trọng đến phòng ngừa, mà không phát hiện để trừng trị nghiêm khắc những kẻ tham nhũng thì không bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, không hạn chế được tham nhũng mà trái lại, còn làm cho tệ tham nhũng gia tăng mạnh mẽ hơn”[2]. Phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng là một trong những thách thức đối với cuộc chiến chống tham nhũng của Nhà nước và toàn xã hội, đặc biệt là trong hoạt động xét xử của Tòa án, bởi vì, việc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi rất khó có bằng chứng vi phạm để kết án, xử phạt.
2. Đặc điểm của công tác phát hiện và xử lý tham nhũng trong hoạt động xét xử của Tòa án
Hoạt động xét xử các vụ án hình sự, các vụ, việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và các việc khác thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là hoạt động tìm kiếm, hoàn trả công lý cho xã hội. Cuộc chiến chống tham nhũng trong lĩnh vực này được xem là rất quan trọng, nhưng lại đầy thách thức, khó khăn. Việc phát hiện và xử lý tham nhũng trong hoạt động xét xử của Tòa án có các đặc điểm sau đây:
Một là, Tòa án là thiết chế duy nhất được nhân danh Nhà nước phán xét một ai đó là có tội hay không có tội, Tòa án có quyền xét xử mọi hành vi phạm pháp luật và các tranh chấp phát sinh trong xã hội từ những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại, hành chính cho đến các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật để bảo vệ các quyền lợi của công dân, tổ chức bị xâm phạm. Hoạt động xét xử có thể dẫn đến hậu quả công dân, tổ chức được hưởng các quyền, lợi ích hoặc phải gánh chịu các nghĩa vụ nhất định, thậm chí mất cả tiền tài, tự do, tính mạng… và phán quyết đó có hiệu lực bắt buộc, được cưỡng chế thi hành. Chính đặc thù riêng có của thiết chế quyền lực tư pháp này khiến những bị can, bị cáo và người liên quan luôn tìm cách hối lộ người tiến hành tố tụng để được có lợi nhất trong việc xét xử, điều này khiến cho việc phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng của người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động xét xử là rất khó khăn vì bản thân người hối lộ tự nguyện, lại có tâm lý lo sợ nên không dám để lại chứng cứ.
Hai là, Tòa án luôn giữ vai trò trung gian, khách quan trong phán xử các tranh chấp, nghĩa là, Tòa án đứng giữa các bên trong xử lý các tranh chấp. Còn trong các vụ án hình sự, Tòa án đứng giữa bên công tố đóng vai trò buộc tội với một bên là bị cáo và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ. Tòa án kiểm tra tính hợp pháp và đúng đắn của các trình tự, thủ tục pháp lý của các bên, bảo đảm mọi quy trình thực hiện theo đúng quy định, không vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, việc đóng vai trò trung gian và đưa ra phán quyết, những người thực hiện quyền tư pháp trong xét xử có thể dễ dàng thiên vị, không khách quan vì vụ lợi mà khó bị phát hiện. Nếu các bên nghi ngờ về kết quả phán quyết, họ sẽ đổ lỗi cho các bên trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh sự thật của vụ án hoặc đổ lỗi do năng lực yếu kém, quá tải trong xử lý các vụ án... Không những thế, hành vi tham nhũng của họ còn có thể là sự câu kết với những người thực hiện quyền tư pháp ở các giai đoạn tố tụng khác để cùng nhau trục lợi, nên khó phát hiện việc tham nhũng có xảy ra ở giai đoạn xét xử hay không.
Ba là, đối với các vụ, việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và các việc khác thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức bị vi phạm về quyền lợi hợp pháp trên cơ sở đề xuất của các bên bị vi phạm. Đặc trưng này khiến việc phát hiện tham nhũng trong lĩnh vực này khó khăn hơn, vì thường là phải chính người trong cuộc hoặc người thân, người có quyền và nghĩa vụ liên quan bị xâm hại vì trục lợi, tự tố giác (song họ lại không có bằng chứng). Trong khi đó, đối với những hành vi tham nhũng làm thất thoát tài sản, lợi ích công do Nhà nước quản lý sẽ được nhiều cá nhân, tổ chức, truyền thông trong, ngoài Nhà nước quan tâm, tố giác giúp thiết chế chống tham nhũng dễ dàng vào cuộc điều tra hơn.
3. Một số biện pháp phát hiện, xử lý tham nhũng hiệu quả trong hoạt động xét xử của Tòa án
Từ các đặc điểm được phân tích ở phần trên, một số biện pháp phát hiện, xử lý tham nhũng trong hoạt động xét xử được trình bày dưới đây đã cho thấy tính hiệu quả trong việc ngăn chặn, vạch trần hành vi tham nhũng của người có chức vụ, quyền hạn tư pháp, phục hồi công lý, làm trong sạch, vững mạnh nền tư pháp:
Thứ nhất, phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ từng quy trình, thủ tục trong các giai đoạn tố tụng tư pháp
Hoạt động xét xử của Tòa án đối với các vụ án hình sự không chỉ giới hạn trong phạm vi phiên tòa, mà còn trải rộng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án[3]. Việc tiến hành các giai đoạn tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử...) là đặc trưng của hoạt động xét xử và là những giai đoạn quan trọng trong việc chứng minh, làm rõ sự thật khách quan của vụ án để trả lại công lý, công bằng không chỉ cho người bị hại, mà cho cả những người bị tình nghi phạm tội. Các giai đoạn này do các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) thực hiện. Việc đúng, sai, công bằng, công lý có được làm sáng tỏ hay không, phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, lương tâm và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, sự phụ thuộc này là ranh giới mong manh giữa đúng và sai, trắng và đen, giữa công lý và bất công..., là cơ hội để lòng tham của người có chức vụ, quyền hạn nổi dậy, nên nhất định phải có một cơ chế pháp lý để bảo đảm những người tiến hành tố tụng không được phép sai sót, đổi trắng thay đen và biến công lý thành bất công... cho dù điều này không phải dễ dàng.
Bảo đảm các thủ tục xét xử công bằng bởi một Tòa án khách quan, độc lập và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại Tòa án là phương thức để thẩm phán có thể giám sát các thủ tục tố tụng của các giai đoạn tiền xét xử (giai đoạn điều tra, truy tố) đã được thực hiện đúng quy trình chưa, có vi phạm các thủ tục tố tụng không, có bảo đảm tính hợp pháp và có căn cứ trong việc áp dụng pháp luật hay không..., từ đó, có thể phát hiện các hành vi tiêu cực của người tiến hành tố tụng. Còn vấn đề giám sát xét xử hiện cũng có quan điểm khác nhau. Một số quốc gia cho rằng, cần phải giao cho Viện công tố (Viện kiểm sát) kiểm sát hoạt động tư pháp, bao gồm cả hoạt động xét xử của Tòa án, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có nhiều nước trên thế giới (như Hoa Kỳ, Ba Lan, Hà Lan, Đan Mạch, Nhật, Hàn Quốc,...) cho rằng, Viện công tố phải thuộc hành pháp và chỉ có chức năng thực hành quyền công tố. Đây cũng là quan điểm được nhiều người ủng hộ. Về mặt lý thuyết, để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, việc giao chức năng kiểm sát xét xử cho Viện kiểm sát không chỉ ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án, mà còn ảnh hưởng đến vị trí, cơ hội và khả năng ngang bằng giữa các bên trong quá trình tranh tụng. Vì vậy, việc giám sát tư pháp (xét xử) tốt nhất cần xuất phát từ chính chức năng, hoạt động tư pháp, từ bản thân hoạt động xét xử của Tòa án, từ quy trình thủ tục cho giai đoạn xét xử. Sự sai sót của Tòa án luôn bị kiểm soát bởi các bên tham gia tố tụng, bởi các chủ thể bị vi phạm quyền và bởi pháp luật[4].
Thứ hai, phát hiện tham nhũng trong hoạt động xét xử thông qua công tác quản lý bên trong và công tác giám sát từ bên ngoài
Nhiệm vụ chống tham nhũng không chỉ của riêng các cơ quan, tổ chức chuyên trách của Nhà nước, mà còn của chính cơ quan quản lý và cả người dân trong xã hội. Trước hết, phát hiện và xử lý tham nhũng phải xuất phát từ bên trong các cơ quan tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý nghiệp vụ, quản lý hành chính. Cơ quan tư pháp có nhiệm vụ phát hiện tham nhũng trong hoạt động xét xử do mình quản lý thông qua các biện pháp như công khai, minh bạch về tổ chức, hoạt động của cơ quan, đơn vị; về thủ tục, trình tự pháp luật; trách nhiệm giải trình; minh bạch về thông tin, về tài sản công, tài sản cá nhân; tiếp nhận đơn thư khiếu nại của người bị xâm hại, qua dư luận xã hội, truyền thông... Xử lý nghiêm mọi hiện tượng tham nhũng từ tham nhũng vặt trong quá trình tiếp nhận hồ sơ, đơn khiếu kiện, thụ lý vụ án, phân công thẩm phán giải quyết vụ án, nghiên cứu hồ sơ đến những tham nhũng nghiêm trọng như tổ chức chạy án, thực hiện xét xử, định tội danh, ra phán quyết trái pháp luật... để răn đe, loại bỏ hiện tượng này.
Khi phát hiện những biểu hiện tiêu cực liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án, như vòi vĩnh, gây khó dễ, chuyển đơn lòng vòng, không giải quyết dứt điểm; tìm cách kéo dài thời gian giải quyết trái quy định làm phát sinh hành vi tiêu cực khác hoặc tìm lý do khác để không giải quyết, xử lý vụ án; đề nghị ra quyết định khởi tố hình sự gây sức ép giải quyết các tranh chấp dân sự; làm sai lệch hồ sơ vụ án, phán xử không công bằng, phán xử theo chỉ đạo của người khác, định tội danh không đúng, đưa ra mức hình phạt không tương xứng với tội danh, phân công người tham gia xét xử không bảo đảm yếu tố công bằng, không triệu tập đương sự theo đúng thủ tục tố tụng, ra quyết định, bản án trái pháp luật… đều cần phải điều tra, xem xét chấn chỉnh, nếu phát hiện có hành vi tiêu cực, tham nhũng trong khi tiến hành tố tụng của cán bộ Tòa án, dù là giá trị tham nhũng không đáng kể cũng phải nghiêm trị mạnh tay để triệt tiêu ý định tham nhũng, trục lợi của người khác, làm trong sạch đội ngũ cán bộ tư pháp, tăng cường kỷ cương công tác.
Phát hiện tham nhũng trong hoạt động xét xử của Tòa án từ bên ngoài (từ những người trực tiếp bị xâm hại, từ dư luận xã hội, truyền thông…) là một kênh quan trọng buộc các nhà chức trách, cơ quan có thẩm quyền phải xem xét, xử lý. Thực tế, như phân tích, việc khiếu kiện các tiêu cực trong hoạt động của Tòa án rất khó được xử lý nếu yêu cầu là phải có chứng cứ chứng minh hành vi tham nhũng của cán bộ Tòa án và người khiếu kiện thường không có bằng chứng, dù bị kết án oan nhưng không làm thế nào để chứng minh được mình bị oan… Vì thế, nếu việc phán quyết một bản án khiến người trong cuộc bức xúc, không đồng tình, dư luận, truyền thông quan tâm thì dù đúng hay sai cũng cần phải được cơ quan có thẩm quyền xem xét lại một cách cẩn trọng. Việc nghiêm khắc với các hành vi tham nhũng trong hoạt động xét xử sẽ trở thành động lực để người dân tin tưởng vào Ngành Tòa án, cùng với cơ quan bảo vệ công lý kiên quyết loại bỏ tệ nạn này.
Bởi vậy, việc phát huy vai trò giám sát hoạt động xét xử của toàn xã hội phải bắt đầu từ chính việc giáo dục ý thức pháp luật, ý thức công lý cho người dân. Việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật, ý thức công lý là nhiệm vụ của các cơ quan, ban, ngành, tổ chức nhà nước và xã hội (cơ sở giáo dục, tổ chức trợ giúp pháp lý, hiệp hội luật sư…), trong đó, Tòa án chính là thiết chế đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục ý thức pháp luật, ý thức công lý cho người dân. Việc phiên tòa được tổ chức xét xử công khai không chỉ bảo đảm sự giám sát đa chiều của xã hội cho một bản án công bằng, chính xác, mà còn là cách để giáo dục ý thức pháp luật, ý thức tôn trọng quyền của mọi cá nhân trong xã hội nhằm ngăn ngừa, phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của người thực hiện quyền tư pháp.
Thứ ba, xử lý tham nhũng trong hoạt động xét xử của Tòa án
Xử lý các hành vi tham nhũng trong hoạt động xét xử của Tòa án là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp chế tài nghiêm khắc để xử lý các cá nhân, tổ chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong xét xử các vụ án hình sự, vụ việc dân sự nhằm trục lợi. Khi phát hiện có hành vi tham nhũng trong hoạt động xét xử, cần phải xử lý thật nghiêm để răn đe, khắc phục, hoàn trả lại tổn thất do hành vi tham nhũng đối với cá nhân, tổ chức trong xã hội, quan trọng hơn là để củng cố niềm tin của xã hội vào nền công lý. Việc xử lý nghiêm kẻ phạm tội cũng là một trong những biện pháp phòng, chống tham nhũng có hiệu quả và được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật.
Việc xoá bỏ, triệt tiêu những lợi ích mà tội phạm trông đợi và thu hồi tất cả những tài sản do tham nhũng mà có được xem là đòn giáng mạnh mẽ và trực tiếp nhất vào động cơ phạm tội, nó còn có tác động mạnh mẽ hơn cả các chế tài hình phạt tù, chung thân hay tử hình[5]. Tuy nhiên, tùy thuộc mức độ và hậu quả vi phạm, người có hành vi tham nhũng trong hoạt động xét xử cũng sẽ phải gánh chịu những biện pháp xử lý và chế tài như quy định đối với người vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, chủ yếu bằng chế tài hình sự và chế tài kỷ luật tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm; áp dụng các biện pháp tư pháp như tịch thu tang vật, tài sản, vật chất tham nhũng. Đối với hoạt động xét xử, tham nhũng có thể gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng, đó là làm oan, sai trong xét xử dẫn đến gây thiệt hại về tinh thần, danh dự, nhân phẩm, tự do, tính mạng của người vô tội… việc khắc phục bằng bồi thường và buộc xin lỗi công khai chỉ bù đắp phần nào mất mát của họ mà thôi.
Về xử lý tham nhũng ở nước ta hiện nay, có một loạt các quy định như: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018; Bộ luật Hình sự năm 2015; Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2010... Theo đó, xử lý tham nhũng chủ yếu bằng chế tài hình sự với mức xử lý cao nhất có thể là chung thân hoặc tử hình và chế tài kỷ luật với mức cao nhất có thể bị cách chức, đuổi việc, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm. Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng đã nêu rõ các trường hợp xử lý cụ thể: Xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về phòng chống tham nhũng (Chương VI); xử lý vi phạm trong việc thực hiện công khai, minh bạch (Điều 81); xử lý vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn (Điều 82); xử lý vi phạm quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị (Điều 83); xử lý vi phạm quy định về xung đột lợi ích (Điều 84); xử lý vi phạm quy định về báo cáo, xử lý báo cáo về hành vi tham nhũng (Điều 85); xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước (Điều 87). Đây là cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi tham nhũng của người có chức vụ, quyền hạn được giao nhiệm vụ tham gia giải quyết, xét xử các vụ án hình sự, vụ việc dân sự.
Để hoạt động phát hiện, xử lý tham nhũng nói chung, tham nhũng tư pháp nói riêng hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi sự đầu tư chi phí và sự quyết tâm rất cao của cả Nhà nước và mọi công dân trong xã hội, hướng tới xây dựng bộ máy tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp liêm chính, thiết diện vô tư; lành mạnh hóa các quan hệ xã hội thông qua đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, củng cố lòng tin của nhân dân và cộng đồng quốc tế, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
ThS. Trần Đăng Ngọc Sơn
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
[1]. Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
[2]. Phạm Ngọc Hiền - Phạm Anh Tuấn (2013), Những kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng trên thế giới mà Việt Nam có thể vận dụng, Website Ban Nội chính Trung ương.
[3]. Đào Trí Úc - Vũ Công Giao (đồng chủ biên), Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014.
[4]. Đào Trí Úc - Vũ Công Giao (đồng chủ biên), Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2014.
[5]. Nguyễn Thị Quế Anh - Vũ Công Giao - Nguyễn Hoàng Anh (đồng chủ biên), Những vấn đề pháp lý đặt ra trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2019.