1. Khái niệm và độ tuổi người chưa thành niên ở Việt Nam và trên thế giới
Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới và là nước đầu tiên ở châu Á phê chuẩn tham gia Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 và là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới cam kết thừa nhận tính pháp lý về các quyền trẻ em. Bằng chứng là Việt Nam sớm có luật quốc gia cam kết thực hiện Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 (Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, năm 2004), theo pháp luật Việt Nam thì quyền trẻ em và công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em được thể hiện thông qua hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước. Đó là cơ sở pháp lý đòi hỏi các tổ chức, cá nhân, gia đình phải tôn trọng các quyền trẻ em, phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, mọi hành vi vi phạm quyền trẻ em đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 đã định nghĩa “trẻ em” là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia có quy định khác.
Nhìn theo cách tổng quát thì mỗi quốc gia có quy định khác nhau về độ tuổi của “trẻ em”. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Bộ Luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Trẻ em năm 2016, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật và một số văn bản pháp luật khác có liên quan. Tất cả các văn bản pháp luật trên đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể; bên cạnh đó, khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em, theo Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 thì “trẻ em là người dưới 16 tuổi”; khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”.
Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định rằng trẻ em dưới 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự[1]. Theo Đạo luật Người chưa thành niên của Nhật Bản thì người chưa thành niên là người dưới 20 tuổi và từ 20 tuổi trở lên được coi là người trưởng thành[2]. Đạo luật Người chưa thành niên điều chỉnh cả những người chưa thành niên vi phạm pháp luật và những người chưa thành niên có nguy cơ vi phạm pháp luật, quy định các thủ tục đặc biệt cho người chưa thành niên, tách biệt họ với người đã thành niên và hạn chế sử dụng hình phạt bao gồm án tử hình và tù chung thân.
Ở Vương quốc Anh, tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định là 10 tuổi. Những phạm nhân trẻ tuổi từ 10 tuổi đến 17 tuổi (tức là đến sinh nhật thứ mười tám của họ) được xếp vào nhóm tội phạm vị thành niên. Trong độ tuổi từ 18 đến 21 (tức là đến ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của họ), họ được phân loại là những phạm nhân trẻ tuổi. Người phạm tội từ 21 tuổi trở lên được gọi là người phạm tội trưởng thành. Những tội phạm vị thành niên sẽ được giải quyết bởi các Tòa án thanh thiếu niên và được gửi đến các trung tâm an toàn đặc biệt cho những người trẻ tuổi, không phải nhà tù dành cho người lớn.
Đối với Philippines, theo Đạo luật Tư pháp và Phúc lợi vị thành niên năm 2006, trẻ em dưới 15 tuổi được miễn trách nhiệm hình sự, độ tuổi từ 15 tuổi đến 18 tuổi được coi là người chưa thành niên, nếu bị kết án từ 06 năm tù trở xuống thì sẽ không bị xét xử bởi Tòa án.
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội ở mỗi nước có quy định độ tuổi khác nhau, trung bình là từ 18 tuổi trở xuống. Điều này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của pháp luật quốc tế về độ tuổi của người chưa thành niên[3]. Có sự chênh nhau không đáng kể về độ tuổi người chưa thành niên ở mỗi nước, điều này là do điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, truyền thống của mỗi quốc gia mà có thể quy định độ tuổi đó sớm hơn hoặc muộn hơn. Tuy vậy, nhà làm luật các nước đều đưa ra các quy định và nguyên tắc khi xử lý người chưa thành niên phạm tội đảm bảo rằng bất cứ sự xử lý nào đối với người chưa thành niên phạm tội phải luôn xem xét tới điều kiện hoàn cảnh của người chưa thành niên và mức độ của tội phạm.
2. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật hình sự Việt Nam và các nước đều thể hiện tính nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khoản 1 Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015 của Việt Nam (sửa đổi, bổ xung năm 2017) cũng khẳng định rõ ràng như sau: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm”.
Đối với một đứa trẻ hoặc một người trẻ tuổi phạm tội ở Vương quốc Anh, Tòa án tập trung vào khả năng phục hồi nhân cách cũng như khả năng giáo dục, tái hòa nhập của người phạm tội hơn là trừng phạt. Khi xem xét xử lý người chưa thành niên phạm tội, Tòa án cũng nên xem xét ảnh hưởng của bản án có thể có đối với trẻ em hoặc thanh thiếu niên (cả tích cực và tiêu cực) cũng như bất kỳ yếu tố cơ bản nào góp phần vào hành vi vi phạm của họ.
Ở Nhật Bản, hệ thống tư pháp người chưa thành niên được coi là hoạt động dựa trên các nguyên tắc nhấn mạnh sự tái hòa nhập và phục hồi. Ngay từ giai đoạn ban đầu tiếp xúc với hệ thống tư pháp hình sự cụ thể là tiếp xúc với cảnh sát địa phương, các biện pháp chuyển hướng đã được áp dụng. Hệ thống tư pháp người chưa thành niên hiện tại của Nhật Bản được thành lập dựa trên Đạo luật Người chưa thành niên năm 1948 trong thời kỳ chiếm đóng của quân Đồng minh và Tòa án gia đình là trung tâm của hệ thống này. Tòa án gia đình tồn tại ở 50 địa điểm trên toàn quốc. Ngoài ra, có 77 văn phòng địa phương ở cùng địa điểm với Tòa án rút gọn (summary courts). Đạo luật Người chưa thành niên cũng nhấn mạnh tính ưu việt của Đạo luật Phúc lợi trẻ em (1947) bởi Đạo luật Người chưa thành niên bị ảnh hưởng đáng kể bởi các cách tiếp cận công tác phúc lợi xã hội của Hoa Kỳ đối với tội phạm chưa thành niên và dựa trên nguyên tắc ưu tiên giáo dục và cải tạo hơn hình phạt hình sự.
Việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội ở Philippines được thể hiện trong Đạo luật Cộng hòa số 9344 (Đạo luật Phúc lợi và Tư pháp vị thành niên), trong đó cung cấp các thủ tục tố tụng phù hợp với trẻ em, bao gồm các chương trình và dịch vụ để phòng ngừa, chuyển hướng, phục hồi - song phương, tái hòa nhập và chăm sóc sau để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển bình thường của người chưa thành niên. Theo đó, đối với những người chưa thành niên phạm tội thì Chính phủ sẽ không áp dụng thủ tục tố tụng tư pháp mà thay vì trừng phạt và coi họ như tội phạm thì họ sẽ được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để ngăn chặn họ phạm tội trong tương lai.
Như vậy, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam và hầu hết các nước đều đề cao mục đích giáo dục, giúp đỡ họ nhận ra sai lầm và sửa chữa để phát triển thành công dân tốt, bởi nếu khi áp dụng hình phạt với họ chỉ nhằm trừng trị mà không cải tạo, giáo dục họ thì khi chấp hành xong hình phạt, họ lại tái phạm thì việc áp dụng hình phạt không có ý nghĩa, lúc đó mục đích mà chúng ta đã đặt ra cũng không đạt được. Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định chính sách nhân đạo đối với người chưa thành niên, họ là đối tượng đặc biệt được pháp luật bảo vệ dưới cả hai góc độ, khi họ là người bị hại và cả khi họ là chủ thể của tội phạm, chính sách này của Nhà nước ta thể hiện rõ và nhất quán, đồng thời cũng phù hợp với Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 mà Việt Nam đã ký kết.
3. Biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật Hình sự Việt Nam và các nước đều đề cao các biện pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội hơn là áp dụng hình phạt đối với họ. Hầu hết, các nước đều quy định việc áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng thay vì áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Nếu trong trường hợp bắt buộc phải áp dụng hình phạt thì mức hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cũng sẽ nhẹ hơn so với người chưa thành niên phạm tội.
Theo pháp luật hình sự của Việt Nam, trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015 và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự chung áp dụng đối với cả người thành niên) thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục bao gồm: Khiển trách, hòa giải tại cộng đồng và biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Để được áp dụng một trong các biện pháp này đòi hỏi người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này.
Việc áp dụng hình phạt đối với người chưa đủ 18 tuổi được Điều 68 Bộ luật Hình sự Philippines quy định như sau: (i) Đối với người từ 9 tuổi đến dưới 15 tuổi mà không được miễn trách nhiệm hình sự, thì người này bị áp dụng mức phạt thấp hơn so với trường hợp bình thường ít nhất 02 bậc; (ii) Đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì mức phạt bị áp dụng là mức thấp hơn 01 bậc so với mức thông thường với một thời hạn hợp lý.
Đối với trường hợp người phạm tội chưa đến 16 tuổi tại thời điểm phạm tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng và bị truy tố thì sau khi xem xét chứng cứ, Tòa án sẽ không tuyên án kết tội, mà sẽ đình chỉ mọi thủ tục tố tụng nhưng tuyên buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý, giáo dục của một cơ sở từ thiện hoặc thân hữu tư nhân hoặc của Nhà nước được thành lập theo luật về chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, trẻ có khuyết tật về nhân cách và trẻ phạm pháp, hoặc giao cho người có trách nhiệm khác với sự giám sát của giám đốc cơ quan phúc lợi xã hội hoặc theo sự giám sát của thanh tra trường công lập theo các điều kiện quy định dưới đây cho tới khi phạm nhân đạt đến tuổi thành niên hoặc trong thời hạn thấp hơn nếu Tòa án thấy phù hợp. Tòa án khi đặt người chưa thành niên vào tình trạng như trên, phải cân nhắc tới yếu tố tôn giáo của người chưa thành niên, hoặc yếu tố tôn giáo của cha mẹ hoặc người thân thích của người chưa thành niên, để tránh việc đưa người chưa thành niên này đặt dưới sự quản lý của tổ chức tư nhân mà không chịu sự quản lý hoặc giám sát của tổ chức tôn giáo tương ứng.
Ở Vương quốc Anh, người chưa thành niên phạm tội nhẹ có thể được chuyển đến chương trình phòng chống tội phạm vị thành niên. Ở đây họ có cơ hội để sửa chữa những gì họ đã làm sai. Ví dụ, họ có thể xin lỗi các nạn nhân và trả tiền cho bất kỳ thiệt hại nào. Nếu họ hoàn thành nghĩa vụ và hoàn thành chương trình phòng, chống tội phạm vị thành niên của mình, họ sẽ không có tiền án. Nếu họ từ chối tham gia chương trình này hoặc không hoàn thành thành công, thì họ sẽ bị chuyển đến công tố viên công cộng và sẽ bị truy tố. Hình phạt thay thế cho người chưa thành niên bao gồm: Án lệnh giới thiệu (điều này đòi hỏi người phạm tội phải tham dự một hội đồng phạm tội thanh thiếu niên (gồm hai thành viên của cộng đồng địa phương và một cố vấn từ một nhóm vi phạm thanh thiếu niên) và đồng ý một hợp đồng có những cam kết nhất định sẽ kéo dài từ ba tháng đến một năm. Mục đích là để người phạm tội bù đắp cho tác hại gây ra và giải quyết hành vi vi phạm của họ. Một án lệnh phải được áp dụng cho người phạm tội trẻ tuổi lần đầu tiên nhận tội, trừ khi Tòa án quyết định rằng một bản án khác là hợp lý, và có thể được áp dụng trong các trường hợp khác; án lệnh cải tạo thanh thiếu niên (đây là bản án cộng đồng có thể bao gồm một hoặc nhiều yêu cầu mà người phạm tội phải tuân thủ trong tối đa 03 năm. Một số ví dụ về các yêu cầu có thể được áp dụng là lệnh giới nghiêm, giám sát, công việc không được trả lương, điều trị bằng thuốc, điều trị sức khỏe tâm thần và giáo dục).
Tòa án có thể cho một người trẻ tuổi bị kết án giam giữ (được gọi là lệnh tạm giam và huấn luyện) nếu: Tội phạm họ phạm phải là rất nghiêm trọng không có lựa chọn phù hợp khác; họ đã phạm tội trước đó, thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn cho rằng người trẻ tuổi có nguy cơ phạm lỗi tiếp. Những người dưới 18 tuổi bị kết án giam giữ sẽ được gửi đến các trung tâm an toàn cho những người trẻ tuổi, mà không phải đến các nhà tù trưởng thành. Ủy ban Tư pháp Thanh niên quyết định trung tâm an toàn mà một người trẻ sẽ được gửi đến. Họ sẽ chọn một nơi nào đó, dựa trên các tiêu chí: Có thể giải quyết nhu cầu của người trẻ một cách an toàn, ví dụ, nếu họ có vấn đề về sức khỏe; phù hợp với độ tuổi, giới tính và lý lịch của họ; càng gần nhà của họ càng tốt. Nếu một người trẻ từ 12 tuổi đến 17 tuổi bị kết án tại Tòa án thanh thiếu niên, một bản án giam giữ có thể kéo dài từ bốn tháng đến hai năm. Tại Tòa án hoàng gia, bản án giam giữ cũng có thể được trao cho một người trẻ tuổi từ 10 tuổi đến 17 tuổi và trong thời gian dài hơn hai năm nếu cần thiết.
Phạt tiền cũng được áp dụng đối với người chưa thành niên như với người lớn, tiền phạt sẽ phản ánh hành vi phạm tội đã gây ra và khả năng trả tiền của người phạm tội. Đối với người phạm tội dưới 16 tuổi, trả tiền phạt là trách nhiệm của cha mẹ hoặc người giám hộ và đó sẽ là khả năng họ phải trả khi tính đến mức phạt.
Ở Nhật Bản, khi cảnh sát tư pháp xác định một người chưa thành niên phạm tội và tội phạm đó chỉ bị trừng phạt với hình phạt tiền hoặc mức phạt thấp hơn, cảnh sát đó sẽ chuyển vụ việc ra Tòa án gia đình. Đối với một hành vi phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt nặng hơn, cảnh sát sẽ chuyển vụ việc cho công tố viên (thuộc hệ thống tư pháp dành cho người đã thành niên), trừ khi trường hợp đó là vi phạm Luật Giao thông đường bộ và hành vi đã được trả tiền phạt theo hệ thống thông báo vi phạm giao thông. Công tố viên sau khi điều tra vụ án và dựa trên kết quả điều tra xác định người chưa thành niên bị nghi ngờ phạm tội sẽ bắt buộc phải chuyển người chưa thành niên này đến Tòa án gia đình. Ngay cả khi người chưa thành niên không bị nghi ngờ phạm tội, người chưa thành niên này vẫn có thể được chuyển tiếp đến Tòa án gia đình nếu công tố viên có căn cứ cho rằng sự xem xét và phán quyết của tòa án gia đình là phù hợp[4].
Nhìn chung, hệ thống pháp luật Nhật Bản về người chưa thành niên phạm tội vẫn còn lưu giữ nhiều yếu tố truyền thống văn hóa, đặc biệt là sự bảo vệ của gia đình và ít đặt ra vấn đề về hình phạt hà khắc. Những yếu tố này được cho rằng có liên quan tới quá trình xã hội hóa của Nhật Bản trong gia đình và trường học, trong đó bao gồm các yếu tố bên trong, yếu tố nội tâm ngăn cản một người thực hiện một hành vi tội phạm. Ngoài ra, chính sách giáo dục, pháp luật của Nhật Bản cùng với hệ thống cảnh sát và các hoạt động ứng phó tội phạm đã khiến những người trẻ tuổi tại Nhật Bản được trưởng thành và có những hiểu biết, nhận thức đúng đắn về vai trò của gia đình, nhà trường và cảnh sát. Đồng thời, xã hội Nhật Bản cũng công nhận vai trò của các tổ chức xã hội trong việc giáo dục trẻ em. Chính các yếu tố này đã góp phần tạo nên hệ thống pháp luật về người chưa thành niên tại Nhật Bản, trong đó điển hình là hệ thống hình phạt với sự nhấn mạnh vào sự tái hòa nhập và phục hồi.
Có thể thấy, đối với người chưa thành niên phạm tội, mặc dù các nước có sự khác nhau khi quy định về độ tuổi của người chưa thành niên. Tuy nhiên, với tinh thần nhân đạo của pháp luật hình sự và mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội đặc biệt là người chưa thành niên, tạo điều kiện cho họ có thể sửa sai và làm lại cuộc đời, pháp luật hình sự các nước đều có những quy định khoan hồng khi xử lý người chưa thành niên phạm tội. Hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội được quy định ở tất cả các nước đều nhẹ hơn so với người đã thành niên và ưu tiên áp dụng các hình phạt không phải tù, nhằm tạo điều kiện cho họ sớm tái hòa nhập cuộc sống cộng đồng./.
Viện Nhà nước và pháp luật