Nó là một trong những tiền đề vật chất cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vì quyền sở hữu chính là sự thừa nhận mà Nhà nước cho phép một chủ thể được thực hiện trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình. Sự thừa nhận ấy quy định giới hạn và khả năng thực hiện của họ trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia lao động sản xuất, kinh doanh… Điều đó tác động trực tiếp đến nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin trình bày về nội dung của quyền sở hữu cũng như các căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành.
1. Quyền sở hữu
Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì quyền sở hữu là những quyền dân sự đối với tài sản và Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác nhận: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”. Đây là những quyền dân sự cụ thể của chủ sở hữu, ba quyền năng trên hợp thành nội dung quyền sở hữu.
1.1. Quyền chiếm hữu
Theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Điều này được hiểu theo một cách đơn giản và thông thường nhất là sự nắm giữ, quản lý cũng như chi phối đối với một hay nhiều tài sản. Quyền chiếm hữu sẽ có hai loại đó là chiếm hữu ngay tình (chiếm hữu có căn cứ pháp luật) và việc chiếm hữu không ngay tình (chiếm hữu không có căn cứ pháp luật).
Thứ nhất, đối với hình thức chiếm hữu ngay tình bao gồm các căn cứ đó là: Chủ sở hữu trực tiếp thực hiện việc chiếm hữu tài sản của mình; hay chủ sở hữu ủy quyền cho người khác thực hiện quản lý tài sản trong phạm vi được ủy quyền; hay quyền chiếm hữu được thực hiện thông qua các giao dịch dân sự đảm bảo phù hợp với ý chí của chủ sở hữu (người đang chiếm hữu hợp pháp thì sẽ chỉ được sử dụng hoặc chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản cho người khác nếu trong trường hợp mà được bên phía chủ sở hữu đồng ý); người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản mà xác định là tài sản trong trường hợp bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định; người phát hiện và thực hiện việc giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện theo quy định của pháp luật và các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Thứ hai, đối với trường hợp chiếm hữu không ngay tình thì đây được xem là một hình thức chiếm hữu không dựa trên bất kỳ một căn cứ luật định nào. Người chiếm hữu biết hoặc pháp luật buộc họ phải biết là mình đang chiếm hữu không có căn cứ hợp pháp nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm hữu, hoặc tuy về chủ quan họ không biết về việc này nhưng pháp luật buộc họ phải biết. Những trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu biết hoặc phải biết về việc chiếm hữu của mình đang thực hiện là hành vi không ngay tình thường liên quan đến các loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, động sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu.
Bên cạnh đó, đối với chiếm hữu liên tục quy định tại Điều 182 Bộ luật Dân sự năm 2015 được hiểu là việc chiếm hữu về mặt thực tế và mặt pháp lý của một chủ sở hữu đối với tài sản. Chiếm hữu về mặt thực tế là việc chủ sở hữu, hoặc người có quyền chiếm hữu tự mình giữ tài sản. Khi chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu tài sản cho một chủ thể khác thì chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản, còn chủ thể được chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu chỉ có quyền chiếm hữu thực tế đối với tài sản. Đây là trường hợp sở hữu trao quyền chiếm hữu thực tế một cách tự nguyện. Ví dụ: Sinh viên A đi xe máy đến trường và gửi xe của mình cho người trông xe B ở bãi giữ xe của trường, trong trường hợp này, sinh viên A là người chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản là chiếc xe máy, còn người giữ xe B là người chiếm hữu về mặt thực tế đối với tài sản là chiếc xe máy đó.
Đồng thời, tính liên tục của chiếm hữu được ghi nhận bao gồm hai điều kiện: Một là, việc chiếm hữu diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định; hai là, không có tranh chấp về quyền đối với tài sản hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Việc chiếm hữu của chủ thể không bị gián đoạn trong quá trình chiếm hữu, đồng thời không xảy ra các tranh chấp về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng… đối với tài sản, hoặc nếu có loại tranh chấp này thì chưa được giải quyết tại Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.
Ngoài việc chiếm hữu liên tục thì tính công khai của việc chiếm hữu cũng là căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu theo quy định của pháp luật. Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình (Điều 183 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Điều 184 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về suy đoán tình trạng và quyền của người chiếm hữu như sau:
“1. Người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh.
2. Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không có quyền.
3. Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.
Trong những điều kiện nhất định, nếu việc chiếm hữu là liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình còn được hưởng quyền xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Họ có thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu.
1.2. Quyền sử dụng
Theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền sử dụng là quyền trong việc khai thác công dụng, cũng như hưởng các hoa lợi, lợi tức của tài sản. Có thể hiểu một cách đơn giản, quyền sử dụng của chủ sở hữu tài sản là việc khai thác cũng như việc hưởng lợi ích từ khối tài sản khai thác được trong phạm vi pháp luật cho phép. Về nguyên tắc, chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật nên có những trường hợp chủ sở hữu không đủ trình độ chuyên môn để sử dụng tài sản là các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Ví dụ như việc vận hành, sử dụng xe ô tô, các dây truyền máy móc công nghiệp... trong trường hợp này, chủ sở hữu phải thông qua người thứ ba để thực hiện quyền sử dụng tài sản thì mới khai thác được các lợi ích vật chất, tính năng của tài sản. Cũng như quyền chiếm hữu, quyền sử dụng không chỉ thuộc về chủ sở hữu tài sản mà ở đây còn thuộc về những người không phải chủ sở hữu nhưng được chủ sở hữu giao quyền hoặc theo quy định của pháp luật. Có thể nói, việc sử dụng tài sản là một quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế đối với chủ sở hữu tài sản.
1.3. Quyền định đoạt
Quyền định đoạt là một trong các quyền năng của chủ sở hữu để quyết định số phận của tài sản. Căn cứ theo Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền định đoạt là quyền thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữ, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.
Chủ sở hữu tài sản thực hiện quyền định đoạt của mình trên hai phương diện: Thứ nhất, định đoạt về số phận thực tế của tài sản như tiêu dùng hết, hủy bỏ hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản; thứ hai, định đoạt về số phận pháp lý của tài sản là việc làm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản từ người này sang người khác.
Thông thường, định đoạt số phận pháp lý đối với tài sản phải thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sở hữu như bán, trao đổi, tặng cho, thừa kế... thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có thể tiêu dùng hết; chuyển quyền chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi giữ); quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian (trong hợp đồng cho thuê, cho mượn) hoặc chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người khác bằng hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho...
Việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Ví dụ, tiêu dùng hết tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản đó; khi bán tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu của người bán đối với tài sản nhưng lại làm phát sinh quyền sở hữu về tài sản đối với người mua.
Trong hai hình thức định đoạt tài sản trên cho thấy: Việc định đoạt số phận thực tế của tài sản thì chủ sở hữu chỉ cần bằng hành vi của mình tác động trực tiếp lên tài sản, nhưng việc định đoạt số phận pháp lý của tài sản thì chủ sở hữu phải thiết lập với một chủ thể khác một quan hệ pháp luật dân sự. Đối với hình thức định đoạt số phận pháp lý của tài sản, Bộ luật Dân sự quy định: Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi dân sự - nghĩa là người đó phải có đầy đủ tư cách chủ thể. Trong những trường hợp tài sản ít giá trị, việc thực hiện quyền định đoạt có thể bằng phương thức đơn giản như thỏa thuận miệng, chuyển giao ngay... nhưng trong những trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục thì phải tuân theo những quy định đó (Điều 193 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản, Bộ luật Dân sự đã quy định việc ủy quyền định đoạt. Chủ sở hữu có thể ủy quyền cho người khác định đoạt tài sản, người được ủy quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu.
Tuy vậy, quyền định đoạt không có nghĩa tuyệt đối, trong những trường hợp nhất định mà pháp luật ràng buộc chủ thể có quyền định đoạt phải tuân theo những quy định để tránh vi phạm Hiến pháp và pháp luật, vì lợi ích chung của xã hội và để bảo đảm ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định. Điều 196 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định việc hạn chế quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Theo đó, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu sẽ bị hạn chế khi những tài sản đem bán, đổi là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa thì Nhà nước (tổ chức, cá nhân theo luật định) có quyền ưu tiên mua. Trong trường hợp đó người bán phải giành quyền ưu tiên mua cho tổ chức, cá nhân này.
Mặc dù vậy, trong thực tế, có trường hợp không phải là chủ sở hữu, chủ sở hữu không ủy quyền, việc định đoạt tài sản có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo các quy định của pháp luật những người đó vẫn có quyền định đoạt tài sản, chẳng hạn như: Cơ quan, tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật, chấp hành viên kí hợp đồng bán đấu giá để thi hành án; chủ hiệu cầm đồ được bán tài sản nếu hết thời hạn đã thỏa thuận mà người vay không trả được tiền vay.
Trong nội dung của quyền sở hữu, từng quyền năng có thể do người không phải chủ sở hữu thực hiện nhưng việc thực hiện đó chủ yếu không mang tính chất độc lập mà phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu. Chỉ có chủ sở hữu mới có quyền thực hiện một cách độc lập không phụ thuộc vào người khác. Cả ba quyền năng cụ thể tạo thành một thể thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu, chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền năng lại có một ý nghĩa khác nhau. Cụ thể: Quyền chiếm hữu là tiền đề quan trọng cho hai quyền sử dụng và định đoạt, nhưng quyền sử dụng lại có ý nghĩa thiết thực, vì chỉ có thông qua quyền năng này chủ sở hữu mới khai thác được lợi ích, công dụng của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu của mình, còn quyền định đoạt lại xác định ý nghĩa pháp lý của chủ sở hữu tài sản.
Như vậy, pháp luật dân sự Việt Nam đã định nghĩa rõ ràng về quyền sở hữu bằng phương pháp liệt kê chứ chưa đưa ra được một định nghĩa khái quát. Mặt khác, việc đưa khái niệm này vào Bộ luật Dân sự năm 2015 ở nước ta là một điểm đặc biệt vì một số nước trên thế giới chỉ đề cập tới khái niệm quyền sở hữu trong khoa học luật chứ không đưa vào luật thực định.
2. Các căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành
Trước đây, khi chưa có Bộ luật Dân sự, vấn đề tài sản và quyền sở hữu được quy định trong Hiến pháp và trong các văn bản pháp luật khác như Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Đất đai, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả, Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Pháp lệnh Thừa kế… Những quy định về quyền sở hữu trong các văn bản pháp luật này đóng vai trò chủ đạo, là cơ sở định hướng cho các quan hệ kinh tế, các quan hệ dân sự. Bộ luật Dân sự ra đời, chế định tài sản và quyền sở hữu đóng vai trò trung tâm, tạo cơ sở pháp lý cho các chế định khác trong Bộ luật cũng như các văn bản pháp luật khác về quan hệ tài sản. Bởi lẽ, quyền sở hữu là cơ sở, là mục đích của rất nhiều quan hệ pháp luật dân sự. Vì thế, quyền sở hữu còn là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ đó. Mục đích cuối cùng của đa phần các hành vi dân sự và giao dịch dân sự là nhằm hướng tới xác lập hoặc chấm dứt quyền sở hữu của các chủ thể. Vì vậy, quyền sở hữu là nội dung hết sức quan trọng trong pháp luật dân sự.
Về mặt lý luận, quyền sở hữu là quyền tuyệt đối của các chủ thể trong luật dân sự, pháp luật luôn ghi nhận và bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu. Việc bảo vệ này phải dựa trên cơ sở pháp lý nhất định. Trong đó, vấn đề mấu chốt, căn bản là những căn cứ để xác định một tài sản hay một tập hợp tài sản thuộc sở hữu của ai? Ai là người có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt nó.
Mặt khác, quyền sở hữu còn được xem xét dưới góc độ là một quan hệ pháp luật dân sự. Bởi thế, nó cũng được phát sinh khi có những sự kiện pháp lý nhất định. Những sự kiện pháp lý này chính là những căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản của cá nhân.
Có thể khẳng định: Các căn cứ xác lập quyền sở hữu và các quan hệ pháp luật dân sự có mối quan hệ phụ thuộc, chi phối lẫn nhau. Giao dịch dân sự là một trong những căn cứ phổ biến để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản thông qua thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên, trong khi đó, muốn tham gia giao dịch dân sự thì chính các chủ thể đó phải có tài sản và tài sản đó phải được xác lập dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định. Vì vậy, việc quy định đầy đủ và chi tiết các căn cứ xác lập quyền sở hữu là hết sức cần thiết để xác định quyền sở hữu tài sản của công dân cũng như các chủ thể khác. Đồng thời, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi khách quan trong lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử.
Tùy thuộc vào pháp luật của mỗi chế độ chính trị khác nhau mà các căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu trong các chế độ đó cũng được quy định khác nhau. Các căn cứ này phản ánh bản chất và xu thế phát triển của mỗi chế độ xã hội. Nội dung các căn cứ có bao quát hay hạn hẹp, cụ thể hay khái lược đều thể hiện quan điểm của giai cấp thống trị và phù hợp với thực tế của xã hội ở thời điểm nhất định. Tính chất, nội dung của từng sự kiện pháp lý quy định từng hình thức sở hữu khác nhau. Khi một sự kiện pháp lý xảy ra nó có thể xuất hiện quyền sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu của pháp nhân, hoặc sở hữu của cá nhân… Quyền sở hữu của mỗi cá nhân chỉ được xác lập dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định đặc trưng cho chủ thể và khách thể của quyền sở hữu cá nhân. Những căn cứ đó là những khả năng xảy ra trong thực tế cuộc sống mà Bộ luật Dân sự ghi nhận và nâng lên thành quy định chung, dựa vào đó chủ sở hữu có được tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
2.1. Các căn cứ xác lập quyền sở hữu là những sự kiện pháp lý do Bộ luật Dân sự quy định
Dựa vào nguồn gốc của những sự kiện pháp lý có thể phân chia làm ba nhóm sau:
Thứ nhất, xác lập theo hợp đồng hoặc từ hành vi pháp lí đơn phương
Hợp đồng là một sự kiện pháp lý trên cơ sở thỏa thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể làm phát sinh sự chuyển dịch quyền sở hữu đối với tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Các hợp đồng mua bán, tặng cho, cho vay,.. nếu được xác lập phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự thì những người được chuyển giao tài sản thông qua các giao dịch hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Những tài sản theo quy định của pháp luật phải đăng ký, sang tên, xin phép thì quyền sở hữu được xác lập từ thời điểm hoàn tất các thủ tục đó. Nghĩa là, bằng hợp đồng dân sự hợp pháp mà quyền sở hữu đối với vật của người này chấm dứt nhưng lại làm xuất hiện quyền sở hữu đối với vật của người khác.
Tương tự, việc nhận tài sản từ di sản thừa kế của người chết theo di chúc hoặc những người được hưởng trong hứa thưởng và thi có giải có quyền sở hữu đối với tài sản đã nhận theo di chúc hoặc tài sản đã nhận thưởng.
Thứ hai, xác lập theo quy định của pháp luật
Đây là những sự kiện pháp lý mà theo quy định của Bộ luật Dân sự, quyền sở hữu được xác lập bao gồm:
(i) Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Kết quả của lao động sản xuất là sự hoạt động của con người trong quá trình tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà trước hết là cho bản thân chủ thể đó. Nguồn gốc ban đầu của tài sản là lao động, vì vậy, ai đã bỏ sức lao động ra thì có quyền sở hữu đối với những thu nhập có được do lao động hoặc do sản xuất, kinh doanh hợp pháp (Điều 222 Bộ luật Dân sự năm 2015 ). Đối với hoa lợi, lợi tức, quyền sở hữu được xác lập theo quy định của pháp luật. Cụ thể:
- Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có được tài sản đó.
- Người tiến hành hoạt động sáng tạo có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ hoạt động sáng tạo theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
(ii) Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản trong trường hợp sáp nhập, trộn lẫn và chế biến. Do các sự kiện sáp nhập, trộn lẫn, chế biến là sự hợp nhất tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau. Kể từ thời điểm sáp nhập, trộn lẫn, vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung hoặc riêng của các chủ sở hữu đó. Những chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán phần giá trị tài sản. Cụ thể:
- Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được sáp nhập với nhau tạo thành vật không chia được và không thể xác định tài sản đem sáp nhập là vật chính hoặc vật phụ thì vật mới được tạo thành là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó; nếu tài sản đem sáp nhập là vật chính và vật phụ thì vật mới được tạo thành thuộc chủ sở hữu vật chính, kể từ thời điểm vật mới được tạo thành, chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán cho chủ sở hữu vật phụ phần giá trị của vật phụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được trộn lẫn với nhau tạo thành vật mới không chia được thì vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó, kể từ thời điểm trộn lẫn.
- Chủ sở hữu của nguyên vật liệu được đem chế biến tạo thành vật mới là chủ sở hữu của vật mới được tạo thành.
+ Người dùng nguyên vật liệu thuộc sở hữu của người khác để chế biến mà ngay tình thì trở thành chủ sở hữu của tài sản mới nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu đó.
+ Trường hợp người chế biến không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật liệu có quyền yêu cầu giao lại vật mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những người này là đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, tương ứng với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. Chủ sở hữu nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có quyền yêu cầu người chế biến bồi thường thiệt hại.
(iii) Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do các sự kiện không xác định được chủ sở hữu hoặc do bị chôn giấu, đánh rơi, bỏ quên. Cơ sở của việc xác lập quyền sở hữu theo những sự kiện trên không phải chỉ đơn giản là các hành vi phát hiện, tìm thấy, nhặt được. Ngoài những sự kiện trên, pháp luật quy định phải sau một thời gian nhất định tương ứng với mỗi sự kiện và giá trị của tài sản đó mà quyền sở hữu mới được xác lập. Ví dụ: Đối với tài sản bị đánh rơi, bỏ quyên phải sau một năm kể từ ngày thông báo công khai về tài sản nhặt được, nếu giá trị bằng hoặc thấp hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định mà không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì vật đó thuộc sở hữu của người nhặt được. Cụ thể:
- Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.
- Người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
- Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.
Trong trường hợp tìm thấy tài sản bị chôn, giấu hoặc bị vùi lấp, bị chìm đắm thì quyền sở hữu được xác lập có thể thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. Điểm a, điểm b khoản 2 Điều 229 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
- Tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật Di sản văn hóa thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
- Tài sản được tìm thấy không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật Di sản văn hóa mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu tài sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.
(iv) Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do các sự kiện gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên. Đối với những sự kiện này, người bắt được ngoài việc thông báo công khai, phải sau một thời hạn tùy thuộc vào đối tượng thất lạc thì quyền sở hữu mới được xác lập. Cụ thể:
- Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 06 tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia súc thả rông theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc được sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia súc.
- Trường hợp gia cầm của một người bị thất lạc mà người khác bắt được thì người bắt được phải thông báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu đối với gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia cầm.
- Khi vật nuôi dưới nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trường hợp vật nuôi dưới nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc sở hữu của mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về người có ruộng, ao, hồ.
(v) Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do được thừa kế tài sản theo pháp luật. Thông qua việc nhận di sản thừa kế theo pháp luật, quyền sở hữu của một người nào đó được xác lập đối với các tài sản mà họ đã nhận từ di sản của người chết.
Thứ ba, xác lập theo những căn cứ riêng biệt
Ngoài những căn cứ có tính phổ biến nêu trên, quyền sở hữu còn có thể được xác lập theo những căn cứ riêng khác. Đó chính là các bản án, quyết định của Tòa án (quyết định hòa giải thành) hoặc các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: Công nhận quyền sở hữu cá nhân của mỗi người sau khi chia tài sản chung hợp nhất của vợ chồng trong các bản án, quyết định ly hôn; các quyết định hòa giải nhà ở của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Quyền sở hữu của một chủ thể có thể được xác lập theo thời hiệu khi có các điều kiện do pháp luật quy định như: Một người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì người ấy trở thành chủ sở hữu tài sản đó. Khi đó, quyền sở hữu sẽ được xác lập và được công nhận kể từ thời điểm người đó bắt đầu chiếm hữu. Tuy nhiên, quy định về thời hiệu này không áp dụng nếu Bộ luật Dân sự hoặc luật khác có liên quan quy định khác.
Đối với các tài sản bị tịch thu (Điều 244 Bộ luật Dân sự năm 2015), bị trưng mua (Điều 243 Bộ luật Dân sự năm 2015) thì về nguyên tắc đây là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với một chủ thể nhất định nhưng đó lại là căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu toàn dân.
2.2. Căn cứ vào quy trình hình thành và thay đổi quyền sở hữu
Nếu dựa vào quy trình hình thành và thay đổi quyền sở hữu thì các căn cứ xác lập quyền sở hữu có thể chia thành:
Thứ nhất, căn cứ đầu tiên: Là những sự kiện pháp lý do đó mà quyền sở hữu được xác lập đầu tiên đối với vật. Theo căn cứ này, quyền sở hữu mới phát sinh không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu trước đó. Ví dụ: Sản phẩm mới được tạo ra trong quá trình sản xuất hoặc việc nhận những kết quả các tài sản mang lại.
Thứ hai, căn cứ kế tục: Là những sự kiện pháp lý xác lập quyền sở hữu mới trên cơ sở chuyển dịch quyền theo ý chí của chủ sở hữu cũ thông qua các hợp đồng dân sự hợp pháp hoặc do thừa kế. Đối với các căn cứ kế tục, chủ sở hữu mới phải chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ liên quan đến tài sản đã chuyển giao của chủ sở hữu cũ với người thứ ba. Ví dụ: Người đã mua nhà của chủ sở hữu nhưng nhà đó chủ sở hữu đang cho người khác thuê mà hợp đồng thuê chưa hết kỳ hạn thì chủ sở hữu mới không có quyền hủy bỏ hợp đồng thuê của chủ sở hữu cũ với người thuê khi chưa kết kỳ hạn thuê.
Có thể nói, quyền sở hữu là một quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Do đó, cũng giống như bất cứ quan hệ pháp luật dân sự nào, quyền sở hữu phát sinh phải dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định. Nó chỉ xuất hiện khi có những sự kiện thực tế mà Bộ luật Dân sự có quy định ý nghĩa pháp lý đối với sự kiện đó. Pháp luật chỉ công nhận và bảo vệ các quyền của chủ sở hữu nếu quyền đó được xác lập trên những căn cứ do pháp luật quy định.
Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội
Tài liệu tham khảo
1. Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb. Hồng Đức, PGS.TS. Đỗ Văn Đại (chủ biên).
2. Trường Đại học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 1, Nxb. Công an nhân dân.