1. Cơ sở lý luận về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam
1.1. Khái niệm, nội dung quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam
Quyền con người là những giá trị thiêng liêng, cao quý của toàn thể nhân loại kết tinh từ nhiều nền văn hóa, văn minh của các dân tộc trên thế giới. “Quyền con người được hiểu là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế”[1].
Theo đó, có thể hiểu, quyền con người về kinh tế, xã hội và văn hóa là nhu cầu thiết yếu về nhân phẩm và giá trị của con người được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận, là điều kiện bảo đảm cho sự tự do và phát triển của con người, bao gồm nhóm quyền kinh tế (quyền về việc làm, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu), nhóm quyền xã hội (quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được chăm sóc sức khỏe), nhóm quyền văn hóa (quyền được giáo dục, học tập; quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa; quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp).
1.2. Chủ thể thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam
Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm trước hết và chủ yếu bảo vệ và thúc đẩy quyền con người nói chung; quyền kinh tế, xã hội, văn hóa nói riêng. Trách nhiệm này cũng đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”[2]. Đây là lần đầu tiên Hiến pháp Việt Nam quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, bao gồm cả quyền kinh tế, xã hội, văn hóa với 04 cấp độ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Như vậy, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền con người nói chung, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa nói riêng thông qua việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật thừa nhận đầy đủ các quyền con người cơ bản; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quyền; chủ động thiết đặt những điều kiện thuận lợi cần thiết nhằm hiện thực hóa cũng như để người dân được thụ hưởng một cách đầy đủ nhất các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa mà pháp luật đã ghi nhận trên thực tế.
1.3. Vai trò của Hiến pháp năm 2013 trong việc thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam
Trong suốt chiều dài lịch sử lập hiến, chế định quyền con người luôn chiếm một vị trí quan trọng trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Các quy định về quyền con người bao gồm cả quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ngày càng được hoàn thiện hơn qua từng bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 ra đời đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của chế định quyền con người, càng khẳng định rõ hơn vai trò đối với chế định quyền con người nói chung, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa nói riêng:
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ghi nhận quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Hiến pháp được coi là đạo luật gốc của mỗi quốc gia, là nền tảng để xây dựng các đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác. Hiến pháp năm 2013 đóng vai trò là cơ sở pháp lý để công nhận, thừa nhận một cách chính thống các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa mà con người được thụ hưởng. Nhờ sự thừa nhận này mà quyền con người ở Việt Nam nói chung, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa nói riêng được tôn trọng và bảo đảm trong thực tiễn.
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam để quyền con người, quyền công dân được thực thi hiệu quả. Việc ghi nhận quyền con người, bao gồm cả quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong Hiến pháp không chỉ là sự thừa nhận từ phía Nhà nước về những quyền đó, mà còn là sự khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc hiện thực hóa những quyền này trên thực tế, hiến định trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam trong việc chủ động, nỗ lực tạo ra những điều kiện vật chất cũng như cơ chế cần thiết để hiện thực hóa những vấn đề đã ghi nhận.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa không bị xâm phạm trên thực tế. Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm chủ yếu bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa nhưng cũng có thể tiềm ẩn mối nguy hiểm cho sự vượt quá giới hạn quyền lực của các cơ quan, cán bộ nhà nước trong việc vi phạm nhân quyền. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 cũng lần đầu tiên đặt ra quy định về quyền con người, bao gồm cả quyền kinh tế, xã hội, văn hóa chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng[3]. Quy định này vừa nhằm ngăn chặn, phòng ngừa nguy cơ các cơ quan nhà nước xâm phạm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, vừa hạn chế khả năng các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề quyền con người để thực hiện các hành vi ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
2. Thực tiễn bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa sau 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam
Hiến pháp năm 2013 là sự kế thừa những tư tưởng tiến bộ của 04 bản Hiến pháp trước đó và kế thừa những giá trị tinh hoa của nhân loại về quyền con người và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 đã chắt lọc những tinh hoa của trí tuệ nhân loại, bám sát mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, nêu cao tinh thần tuân thủ Hiến chương Liên Hợp quốc và mọi điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Hiến pháp năm 2013 dành riêng Chương II để quy định, ghi nhận các nội dung về quyền con người, bao gồm cả các quy định về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, hoàn thiện các quy định về quyền con người, đồng thời, bổ sung một số quyền mới về kinh tế, xã hội và văn hóa[4].
Sau hơn 10 năm ban hành và tổ chức thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã và đang tiếp tục phát huy được vai trò trong việc thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trước bối cảnh mới, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, trước tình hình thế lực thù địch ngày càng tìm cách chống phá, việc thúc đẩy nhóm quyền này phải đối mặt với những thách thức vô cùng lớn cần được giải quyết triệt để, kịp thời và phải có giải pháp tổng thể như sau:
2.1. Đối với nhóm quyền kinh tế
Nhóm quyền kinh tế được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 và được bảo đảm trên thực tế bởi quyền về việc làm, quyền tự do kinh doanh và quyền sở hữu. Hiến pháp năm 2013 hiến định một cách cụ thể quyền làm việc, quyền được tự do lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc của công dân Việt Nam (Điều 35). Hiến pháp năm 2013 cũng quy định về sở hữu tư nhân và quyền thừa kế thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác (Điều 32). Thay vì chỉ quy định đối tượng có quyền kinh doanh là công dân Việt Nam như Điều 57 Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền tự do kinh doanh”, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Như vậy, Hiến pháp năm 2013 mở rộng hơn đối tượng và ngành, nghề được kinh doanh, tạo điều kiện cho mọi người tự do làm giàu chính đáng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với đó, Hiến pháp năm 2013 đã gắn trách nhiệm của Nhà nước vào việc khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước (Điều 55). Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh theo đó cũng được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Nhà nước chỉ thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Thực tế, dưới sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước, trong năm 2023, thị trường lao động Việt Nam đã giải quyết được việc làm cho 51,3 triệu lao động, tăng 683,0 nghìn người (1,35%) so với năm 2022. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới theo thống kê năm 2023 đã tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2022, gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017 - 2022 và tăng 4,6% so với ước thực hiện cả năm 2023[5]. Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, vượt qua nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và lọt Top 50 quốc gia cải thiện môi trường kinh doanh tốt nhất thế giới, trong năm 2023, Việt Nam đã đạt hạng 47/190 quốc gia trong Bảng xếp hạng Chỉ số cải thiện môi trường kinh doanh[6], tăng 22 bậc so với cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện nay, Việt Nam vẫn còn tồn tại gần 1,07 triệu người thất nghiệp trong độ tuổi lao động, con số này theo ước tính tuy đã giảm 14,6 nghìn người[7] so với năm 2022 nhưng vẫn là một vấn đề cấp bách, cần giảm thiểu càng sớm càng tốt. Tổng số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 89,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 20,7% so với năm 2022; 65,5 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 28,9%; 18 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 3,1%[8]. Điều này làm cho Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho mọi doanh nhân, doanh nghiệp có đủ yêu cầu cần thiết để vận hành và duy trì nó.
2.2. Đối với nhóm quyền xã hội
Nhóm quyền xã hội được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 và được hiện thực hóa hiệu quả trên thực tế thông qua quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34), quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 38):
- Về quyền được bảo đảm an sinh xã hội, đây là một quyền mới, chưa được ghi nhận tại bất kỳ bản Hiến pháp nào trước năm 2013, theo đó: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Quy định này tạo cơ sở pháp lý bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân để có được thu nhập tối thiểu nhằm thoát khỏi tình trạng nghèo đói ngay cả khi không có việc làm, không có thu nhập và khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
- Về quyền được chăm sóc sức khỏe, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh”. Theo đó, tất cả mọi người đều có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh; nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng (Điều 38 Hiến pháp năm 2013).
Sau 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013, cho đến nay, mạng lưới an sinh xã hội ngày càng được mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lượng phục vụ người dân. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vừa qua, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách chưa có tiền lệ nhằm bảo đảm quyền lợi của người bị tác động bởi đại dịch như Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó, khi đại dịch Covid-19 đang bùng phát mạnh mẽ ở Việt Nam, gói an sinh xã hội lần thứ nhất nhằm hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn trong đại dịch có quy mô gần 62.000 tỷ đồng và gói an sinh xã hội lần thứ hai với tổng giá trị gần 26.000 tỷ đồng đã được triển khai[9]. Tính đến năm 2023, cả nước đã có hơn 93,3 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, đạt tỷ lệ 93,35% dân số, tiệm cận với mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân[10]. Hàng năm, bình quân có trên 150 triệu lượt người dân Việt Nam khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế với số tiền quỹ bảo hiểm y tế chi trả trên 100 nghìn tỷ đồng[11]. Hệ thống khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế được tổ chức tốt từ trung ương đến địa phương, các cơ sở khám, chữa bệnh công lập và tư nhân không ngừng đầu tư, cải tạo, nâng cao chất lượng hoạt động tạo điều kiện thuận lợi giúp người dân tiếp cận và sử dụng các dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Trong năm 2023, toàn Ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết gần 95,7 nghìn trường hợp/người hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng; hơn 8,8 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; phối hợp với Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội giải quyết cho hơn 01 triệu người hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Tổng số chi của các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đạt trên 439,27 nghìn tỷ đồng, trong đó, quỹ bảo hiểm y tế là 124,3 nghìn tỷ đồng với hơn 174,8 triệu lượt người khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế[12].
Tuy nhiên, công tác bảo đảm an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe toàn dân ở Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức lớn như giảm nghèo chưa bền vững, người dân ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, phân hóa giàu, nghèo, phân hóa giữa các vùng, miền có xu hướng mở rộng. Nguồn lực để thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, hệ thống y tế và công tác chăm sóc sức khỏe đang tập trung nhiều tới điều trị cho người bị bệnh tại các cơ sở y tế, trong khi phân tích về nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho thấy, chỉ khoảng 20% người dân bị bệnh cần phải nhập viện[13], còn lại 80% người dân bị mắc bệnh nhẹ hoặc chưa có bệnh chỉ cần các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu[14], tuy nhiên, việc cung ứng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu lại chưa được thực hiện tốt. Ngoài ra, tình trạng sức khỏe người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn kém, đặc biệt là các chỉ số về tỷ lệ tử vong bà mẹ, tử vong trẻ em, tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, tài chính y tế còn nhiều bất cập khi nguồn lực đầu tư cho y tế vốn chưa nhiều lại bị cắt giảm do ngân sách hạn hẹp.
2.3. Đối với nhóm quyền văn hóa
Nhóm quyền văn hóa được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 và được bảo đảm trên thực tế bởi quyền được giáo dục, học tập (Điều 39); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42). Theo đó, mọi người dân Việt Nam đều có quyền được giáo dục, học tập, đều được hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó. Mọi công dân Việt Nam đều có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ khi giao tiếp trong đời sống xã hội.
Hiến pháp năm 2013 là Hiến pháp đầu tiên hiến định về quyền văn hóa của con người. Điều này thể hiện, Việt Nam đã có sự nhìn nhận mới về các giá trị văn hóa, quán triệt tinh thần nhất quán của Đảng xác định văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là sức mạnh nội sinh và động lực phát triển đất nước; đồng thời, thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”[15]. Hiến pháp năm 2013 đã xác định trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm và phát triển các quyền về văn hóa: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” (Điều 60).
Thực tế, công tác thúc đẩy quyền văn hóa ở Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Nhờ có khung pháp lý bảo đảm hiện thực hóa quyền nên trẻ em 5 tuổi và trẻ em ở lứa tuổi tiểu học được thụ hưởng chương trình giáo dục bắt buộc, không phải trả tiền học phí nếu học ở các trường công lập. Tính đến nay, có 98,2% trẻ em ở Việt Nam đi học đúng tuổi bậc tiểu học[16]. Về công tác phát triển Quỹ khuyến học, khuyến tài, trong năm 2023, đã tiếp nhận gần 04 tỉ đồng từ các tổ chức, cá nhân ủng hộ. Quỹ đã chi gần 07 tỷ đồng để trao các suất học bổng cho học sinh nghèo vượt khó, thầy cô giáo có thành tích tốt. Từ nguồn Quỹ trên, đã có 20 em học sinh mồ côi cha, mẹ trong đại dịch Covid-19 được nhận đỡ đầu, 250 đại biểu xuất sắc được tuyên dương trong lễ trao học bổng “Học không bao giờ cùng” lần thứ 3[17]. Về quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, nhu cầu thụ hưởng các giá trị này trên thực tế ngày càng cao, do đó, ngày càng nhiều các khu vui chơi giải trí công cộng, công viên, nhà văn hóa, điểm bưu điện văn hóa xã, thư viện, sân vận động, rạp hát, rạp chiếu phim, điểm internet công cộng được xây dựng và duy trì thực hiện. Cả nước hiện có 67 thiết chế văn hóa cấp tỉnh; 683 Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp huyện, đạt tỷ lệ 95%; 7.194 Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp xã, đạt tỷ lệ 65,7% và có 75.327 Nhà Văn hóa cấp thôn, bản…, đạt tỷ lệ 74% do Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý[18]. Nhiều di sản văn hóa đã trở thành những sản phẩm văn hóa - du lịch hoàn chỉnh, vừa là động lực, vừa là mục tiêu cho sự phát triển ngành kinh tế mũi nhọn du lịch. Hiện nay, cả nước đã có trên 04 vạn di tích được kiểm kê, 10.000 di tích cấp tỉnh/thành phố, 3.599 di tích quốc gia, 123 di tích quốc gia đặc biệt và 08 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận. Tính đến tháng 7/2022, Việt Nam có 14 di sản được UNESCO ghi danh, 431 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Tuy nhiên, việc bảo đảm hiện thực hóa các quyền này trên thực tế còn gặp không ít khó khăn như: Tình trạng trẻ em đi học không đúng độ tuổi tồn tại ở tất cả các cấp học (đến năm 2019, tiểu học chiếm 3,1%, trung học cơ sở chiếm 18,4%, trung học phổ thông chiếm 53%); tỷ lệ người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 80,9%[19]. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Việt Nam hiện còn 8,3% trẻ em trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đến trường mà chủ yếu là trẻ em ở vùng sâu, vùng xa, miền núi. Hơn nữa, mức chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2013 - 2023 dành cho giáo dục vẫn chưa đạt chỉ tiêu tối thiểu 20%[20] theo Luật Giáo dục năm 2019. Thêm vào đó, sự xâm nhập của các yếu tố ngoại lai ngày càng mạnh mẽ, tác động rất lớn đến hành vi, ứng xử của con người, đặc biệt là một bộ phận giới trẻ khi “chạy” theo những nhu cầu hưởng thụ văn hóa mang tính hướng ngoại, “bỏ quên” các giá trị truyền thống, cốt lõi, bền vững của dân tộc. Bên cạnh đó, có một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái phẩm chất, tham ô, tham nhũng, gây phiền hà cho Nhân dân đang là một thách thức cho công cuộc thúc đẩy nhóm quyền này trên thực tế.
3. Giải pháp thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam hiện nay
Đứng trước những khó khăn, thách thức, để nâng cao hiệu quả thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam trong bối cảnh mới, cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.
Quá trình triển khai, tổ chức thực hiện, bảo đảm quyền con người trên thực tế phải luôn bám sát những chủ trương, đường lối của Đảng đã đặt ra đối với quyền con người, trong đó, bao gồm cả các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân với xã hội”[21]. Quan điểm này cũng được thể hiện trong Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 16/4/2020 của Ban Bí thư về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành và nghiên cứu, học tập sách lý luận chính trị, theo đó, quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật và trách nhiệm của Nhà nước, của tất cả các ngành, các địa phương, cơ sở là phải tích cực, chủ động thực hiện nhằm ngày càng hoàn thiện và nâng cao các quyền con người, quyền công dân.
Thứ hai, nâng cao chất lượng, thường xuyên tổng kết, đánh giá thực tiễn thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.
Thực tiễn là động lực, là cơ sở lý luận, mọi tri thức hình thành trực tiếp hay gián tiếp đều có nguồn gốc từ thực tiễn[22]. Muốn nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được bảo đảm thực hiện trong đời sống xã hội thì cần đẩy mạnh việc tổng kết, đánh giá thực tiễn. Việc tổng kết, đánh giá cần phải được thực hiện thường xuyên, không chỉ theo năm, theo quý, theo nhiệm kỳ mà phải căn cứ vào thực tiễn của từng địa phương, đơn vị, từng đối tượng mà có sự linh hoạt. Các kết luận được đưa ra phải tiến hành trên cơ sở các phương pháp bảo đảm tính khoa học, có sự tham gia phản biện, góp ý và đánh giá đa chiều.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện pháp luật quy định về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, đồng thời nâng cao nhận thức, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật về bảo đảm nhóm quyền này.
Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét, chuẩn bị các điều khoản cần thiết để nội luật hóa, bổ sung những quyền tự do được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) mà chưa được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 nếu phù hợp với tình hình của Việt Nam, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân[23]. Ngoài ra, cần xem xét bổ sung quy định về một thiết chế riêng, bảo đảm quyền con người, bao gồm cả nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Để bảo đảm hiệu quả giải pháp này, cần bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức chịu trách nhiệm xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa nhằm thể chế hóa những quy định ưu việt của Hiến pháp năm 2013 cũng như các văn bản quy phạm pháp luật quy định về vấn đề này khi được ban hành và áp dụng trong thực tiễn.
Hiến pháp năm 2013 đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Đồng thời, cũng là cơ sở để các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý và thúc đẩy các mục tiêu về kinh tế, xã hội, văn hóa, tạo nền tảng nâng cao chất lượng cuộc sống cũng như mức độ thụ hưởng các quyền của người dân trong thực tiễn đời sống, bám sát định hướng “tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân với xã hội” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới./.
Nguyễn Hải Anh
Học viện Chính trị khu vực I
[1]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị, Nxb. Lý luận chính trị, 2021, tr. 14.
[2]. Khoản 2 Điều 1, Điều 3 Hiến pháp năm 2013.
[3]. Khoản 2 Điều 1, Điều 3 Hiến pháp năm 2013.
[4]. Cụ thể như quyền về văn hóa, quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền hưởng an sinh xã hội (Điều 34).
[5]. Theo Tổng cục Thống kê, Bức tranh về tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2023 và dự báo xu hướng doanh nghiệp trong năm 2024, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/buc-tranh-ve-tinh-hinh-dang-ky-doanh-nghiep-nam-2023-va-du-bao-xu-huong-doanh-nghiep-trong-nam-2024/, truy cập ngày 15/6/2024.
[6]. Theo Tổng cục Thống kê, Bức tranh về tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2023 và dự báo xu hướng doanh nghiệp trong năm 2024, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/buc-tranh-ve-tinh-hinh-dang-ky-doanh-nghiep-nam-2023-va-du-bao-xu-huong-doanh-nghiep-trong-nam-2024/, truy cập ngày 15/6/2024.
[7]. Theo Tổng cục Thống kê, Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-viet-nam-nam-2023/, truy cập ngày 15/6/2024.
[8]. Theo Tổng cục Thống kê, Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-viet-nam-nam-2023/, truy cập ngày 15/6/2024.
[9]. PGS.TS. Tường Duy Kiên, 2022, Thành tựu về bảo đảm quyền con người tại Việt Nam trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, https://www.xaydungdang.org.vn/nhan-quyen-va-cuoc-song/thanh-tuu-ve-bao-dam-quyen-con-nguoi-tai-viet-nam-trong-tien-trinh-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn-18098#_ftn5, truy cập ngày 15/6/2024.
[10]. Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế, Bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh và bền vững, 2024, https://moh.gov.vn/tin-lien-quan/-/asset_publisher/vjYyM7O9aWnX/content/bao-phu-bao-hiem-y-te-tang-nhanh-va-ben-vung, truy cập ngày 15/6/2024.
[11]. Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế, Bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh và bền vững, 2024, https://moh.gov.vn/tin-lien-quan/-/asset_publisher/vjYyM7O9aWnX/content/bao-phu-bao-hiem-y-te-tang-nhanh-va-ben-vung, truy cập ngày 15/6/2024.
[12]. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 10 kết quả nổi bật của ngành BHXH Việt Nam năm 2023, https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/hoat-dong-he-thong-bao-hiem-xa-hoi, truy cập ngày 15/6/2024.
[13]. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 10 kết quả nổi bật của ngành BHXH Việt Nam năm 2023, https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/hoat-dong-he-thong-bao-hiem-xa-hoi, truy cập ngày 15/6/2024.
[14]. Theo bà Đào Hồng Lan, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế, 2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/hoan-thien-the-che-chinh-sach-ve-cham-soc-suc-khoe-bao-dam-quyen-tiep-can-dich-vu-cham-soc-suc-khoe-cho-moi-nguoi-dan, truy cập ngày 15/6/2024.
[15]. Hồ Chí Minh, 1997, Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 64.
[16]. Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam và UNICEF (2021), Báo cáo kết quả Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2020 - 2021.
[17]. Theo ông Lê Mạnh Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khuyến học Việt Nam, 2023, https://laodong.vn/giao-duc/quy-khuyen-hoc-viet-nam-chi-7-ti-dong-cho-khuyen-hoc-khuyen-tai-nam-2023-1283089.ldo, truy cập ngày 15/6/2024.
[18]. Cổng thông tin điện tử Sở Thông tin và truyền thông, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước, 2023, Đảm bảo quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, https://binhphuoc.gov.vn/vi/stttt/thong-tin-doi-ngoai/dam-bao-quyen-huong-thu-va-tiep-can-cac-gia-tri-van-hoa-tham-gia-vao-doi-song-van-hoa-su-dung-cac-co-so-van-hoa-1899.html, truy cập ngày 15/6/2024.
[19]. Đức Thành, 2024, Thực trạng và kiến nghị trong việc bảo đảm quyền học tập của trẻ em dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Tạp chí Xây dựng Đảng, https://www.xaydungdang.org.vn/nhan-quyen-va-cuoc-song/thuc-trang-va-kien-nghi-trong-viec-bao-dam-quyen-hoc-tap-cua-tre-em-dan-toc-thieu-so-o-viet-nam-18975, truy cập ngày 15/6/2024.
[20]. Quý Hiên & Tuệ Nguyễn (2023), Ngân sách cho giáo dục chưa đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước, https://thanhnien.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-chua-dat-toi-thieu-20-tong-chi-ngan-sach-nha-nuoc 18523121409434821.htm, truy cập ngày 15/6/2024.
[21]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 71.
[22]. Đoàn Minh Huấn, Tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu lý luận của Đảng - Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, http://tuyengiao.vn/, truy cập ngày 15/6/2024.
[23]. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hệ thống tư liệu - văn kiện, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 411), tháng 8/2024)