Vi phạm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ là tình trạng phổ biến ở Việt Nam, mà các quốc gia khác trên thế giới cũng như vậy, kể cả các nước phát triển như Mỹ, Đức, Pháp… Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng trong việc thúc đẩy sự sáng tạo, phát triển nền kinh tế, văn hóa và trở thành điều kiện tiên quyết trong hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia. Vì vậy, tiếp tục nâng cao nhận thức cho người dân, các tổ chức và cá nhân có liên quan, nhằm đưa Luật Sở hữu trí tuệ vào cuộc sống là điều cần thiết...[2]
Quyền sở hữu công nghiệp là một trong những quyền quan trọng trong các quyền sở hữu trí tuệ có tác động lớn đến đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy, vấn đề bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cũng rất quan trọng. Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ thì “quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”. Trong các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp đó thì sáng chế cũng chiếm vị trí, vai trò quan trọng trong việc tìm tòi, sáng tạo, áp dụng những giải pháp mới, tiên tiến góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và phát triển kinh tế.
Vậy khái niệm sáng chế là gì? Có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo hiểu biết thông thường, sáng chế là sản phẩm sáng tạo của con người, không có sẵn trong tự nhiên. Ở khía cạnh này, bất cứ cái gì được con người tạo ra đều có thể được xem là sáng chế. Chẳng hạn, T. Edisson là người sáng chế ra bóng đèn, máy ghi âm[3].
Theo từ điển bách khoa mở Wikipedia, sáng chế là một giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ thuật, tính sáng tạo và áp dụng được.
Theo Hiệp định TRIPs[4] thì để sáng chế được bảo hộ phải đáp ứng được điều kiện là sáng chế đó phải mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp.
Đứng ở khía cạnh pháp luật Việt Nam, theo quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ thì “sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”. Hay sáng chế cũng có thể hiểu theo cách khác là “giải pháp kỹ thuật - đối tượng được bảo hộ dưới danh nghĩa là sáng chế - là tập hợp cần và đủ các thông tin về cách thức kỹ thuật và/hoặc phương tiện kỹ thuật nhằm giải quyết một nhiệm vụ (một vấn đề) xác định”[5].
Như vậy, sáng chế được xác định là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hay quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
Vậy thì vấn đề bảo hộ sáng chế được quy định như thế nào? Theo quy định tại Điều 58 Luật Sở hữu trí tuệ để sáng chế được bảo hộ cần phải đáp ứng được các điều kiện như sau:
“1. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có trình độ sáng tạo;
c) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
2. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có khả năng áp dụng công nghiệp”.
Tựu chung để sáng chế được bảo hộ cần phải đảm bảo ba điều kiện là phải có tính mới, có trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Trong đó, điều kiện có trình độ sáng tạo là một trong những điều kiện bắt buộc để phân biệt trong xem xét về hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế hay bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
Sáng tạo là một thuật ngữ gắn liền với sự thay đổi, đưa ra cái mới, do đó, tính sáng tạo thực chất rất gần với tính mới khi chúng ta đề cập sáng chế với tư cách là một đối tượng của sở hữu công nghiệp[6].
Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng[7].
Trình độ sáng tạo được xem là một thuộc tính quan trọng để đánh giá chất lượng của các sáng chế. Theo đó, tính sáng tạo để sáng chế càng có giá trị và khả năng áp dụng trong các hoạt động kinh tế - xã hội hay phục vụ cuộc sống càng lớn. Trong một số trường hợp khi xem xét các tiêu chuẩn của một sáng chế để cấp văn bằng bảo hộ, tính sáng tạo có thể có ít, thậm chí không có tính sáng tạo[8]. Khi đó, chỉ cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích trong trường hợp sáng chế không đáp ứng tiêu chuẩn về tính sáng tạo nhưng có tính mới và có khả năng áp dụng công nghiệp thì sáng chế sẽ được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu sáng chế này không phải là hiểu biết thông thường. Trường hợp này không đáp ứng được về tính sáng tạo nhưng vẫn đáp ứng được điều kiện là không phải những hiểu biết thông thường, tức không phải ai cũng có thể làm được, không phổ biến rộng rãi. Vấn đề này chỉ được bảo hộ với danh nghĩa là bằng giải pháp hữu ích chứ không phải sáng chế. Trên thực tế theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, giải pháp hữu ích về bản chất cũng là sáng chế nhưng ở trình độ thấp hơn mà trong lĩnh vực pháp luật người ta gọi là sáng chế nhỏ hay mẫu hữu ích. Mặc dù vậy, pháp luật của nhiều nước trong đó có Việt Nam có sự phân biệt hai đối tượng này[9].
Vậy tiêu chí nào để đánh giá trình độ sáng tạo đó? Việc đánh giá trình độ sáng tạo của giải pháp kỹ thuật được thực hiện bằng cách đánh giá dấu hiệu (các dấu hiệu) cơ bản khác biệt nêu trong phạm vi (yêu cầu) bảo hộ để đưa ra kết luận: (i) Dấu hiệu (các dấu hiệu) cơ bản khác biệt có bị coi là đã được bộc lộ trong nguồn thông tin tối thiểu bắt buộc[10] hay không và (ii) Tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt có bị coi là có tính hiển nhiên đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng hay không.
Ứng với một điểm thuộc phạm vi (yêu cầu) bảo hộ, giải pháp kỹ thuật được coi là có trình độ sáng tạo nếu việc đưa dấu hiệu cơ bản khác biệt vào tập hợp các dấu hiệu cơ bản của giải pháp kỹ thuật là kết quả của hoạt động sáng tạo và không phải là kết quả hiển nhiên của hiểu biết thông thường trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Trong các trường hợp sau đây (nhưng không phải chỉ trong các trường hợp đó), ứng với một điểm thuộc phạm vi bảo hộ, giải pháp kỹ thuật bị coi là không có trình độ sáng tạo: (i) Tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt mang tính hiển nhiên (bất kỳ người nào có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng cũng biết rằng để thực hiện chức năng đã định hoặc để đạt được mục đích đã định tất yếu phải sử dụng tập hợp các dấu hiệu đó và ngược lại khi sử dụng tập hợp các dấu hiệu đó thì tất yếu phải đạt được mục đích hoặc thực hiện được chức năng tương ứng); (ii) Tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt đã được bộc lộ dưới dạng đồng nhất hoặc tương đương trong một/một số giải pháp kỹ thuật nào đó đã biết trong nguồn thông tin tối thiểu bắt buộc; (iii) Giải pháp kỹ thuật là sự kết hợp đơn giản của các giải pháp kỹ thuật đã biết với chức năng, mục đích và hiệu quả cũng là sự kết hợp đơn giản chức năng, mục đích và hiệu quả của từng giải pháp kỹ thuật đã biết.
Trong điểm này: (i) Hai dấu hiệu được coi là đồng nhất nếu có cùng bản chất; (ii) Hai dấu hiệu được coi là tương đương nếu có bản chất tương tự nhau có cùng mục đích và cách thức đạt được mục đích cơ bản là giống nhau[11].
Để được xem là có trình độ sáng tạo và được cấp bằng độc quyền sáng chế thì phải thỏa mãn được các điều kiện là các dấu hiệu cơ bản mang tính khác biệt không bộc lộ trong nguồn thông tin tối thiểu bắt buộc[12] và giải pháp kỹ thuật này không có tính hiển nhiên đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng mà đòi hỏi phải đáp ứng được các yêu cầu nhất định, các tiêu chí, dấu hiệu cơ bản để phân biệt với các giải pháp kỹ thuật khác.
Tóm lại, trình độ sáng tạo là điều kiện bắt buộc để giải pháp kỷ thuật được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế, trong đó, sáng tạo là kết quả của những ý tưởng được hiện thực hóa và mô tả chi tiết trong điều kiện kỹ thuật hiện đại một người có kỹ năng thông thường (trình độ kỹ thuật trung bình) không thể tự tìm ra[13]. Trong tình hình kinh tế hội nhập hiện nay, hòa nhập chung với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng được chú trọng quan tâm. Đặc biệt vấn đề bảo hộ sáng chế thì được các quốc gia đặc biệt cân nhắc, chú trọng. Đối với Việt Nam là một nước đang phát triển, đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi, phải có những cơ chế, những chính sách, quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và sáng chế nói riêng, nhằm thúc đẩy, khuyến khích hoạt động sáng chế của con người cũng như nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nước trong thời kỳ hội nhập.
Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
’’25.5 Đánh giá tính mới theo quy định tại Điều 60 của Luật Sở hữu trí tuệ
a) Nguồn thông tin tối thiểu bắt buộc
Để đánh giá tính mới của giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn, ít nhất phải tiến hành tra cứu thông tin trong các nguồn bắt buộc sau đây (nhưng không chỉ giới hạn việc tra cứu ở nguồn tối thiểu đó):
(i) Tất cả các đơn đăng ký sáng chế đã được Cục Sở hữu trí tuệ tiếp nhận có cùng chỉ số phân loại với chỉ số phân loại của đối tượng nêu trong đơn đang được thẩm định - tính đến chỉ số phân lớp (chỉ số hạng thứ ba) và có ngày công bố sớm hơn ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đang được thẩm định;
(ii) Các đơn đăng ký sáng chế hoặc các văn bằng bảo hộ sáng chế do các tổ chức, quốc gia khác công bố, trong vòng 25 năm trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đang được thẩm định (nếu đơn được hưởng quyền ưu tiên) được lưu giữ trong cơ sở dữ liệu sáng chế có tại Cục Sở hữu trí tuệ và các nguồn thông tin khác do Cục Sở hữu trí tuệ quy định, với phạm vi tra cứu quy định tại điểm 25.5.a (i) trên đây.
Trong trường hợp cần thiết và có thể, việc tra cứu được mở rộng đến các báo cáo khoa học, báo cáo kết quả của các chương trình, đề tài nghiên cứu và các tài liệu khác thuộc cùng lĩnh vực kỹ thuật được công bố và lưu giữ tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia’’.
“25.5 Đánh giá tính mới theo quy định tại Điều 60 của Luật Sở hữu trí tuệ
a) Nguồn thông tin tối thiểu bắt buộc
Để đánh giá tính mới của giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn, ít nhất phải tiến hành tra cứu thông tin trong các nguồn bắt buộc sau đây (nhưng không chỉ giới hạn việc tra cứu ở nguồn tối thiểu đó):
(i) Tất cả các đơn đăng ký sáng chế đã được Cục Sở hữu trí tuệ tiếp nhận có cùng chỉ số phân loại với chỉ số phân loại của đối tượng nêu trong đơn đang được thẩm định - tính đến chỉ số phân lớp (chỉ số hạng thứ ba) và có ngày công bố sớm hơn ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đang được thẩm định;
(ii) Các đơn đăng ký sáng chế hoặc các văn bằng bảo hộ sáng chế do các tổ chức, quốc gia khác công bố, trong vòng 25 năm trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đang được thẩm định (nếu đơn được hưởng quyền ưu tiên) được lưu giữ trong cơ sở dữ liệu sáng chế có tại Cục Sở hữu trí tuệ và các nguồn thông tin khác do Cục Sở hữu trí tuệ quy định, với phạm vi tra cứu quy định tại điểm 25.5.a (i) trên đây.
Trong trường hợp cần thiết và có thể, việc tra cứu được mở rộng đến các báo cáo khoa học, báo cáo kết quả của các chương trình, đề tài nghiên cứu và các tài liệu khác thuộc cùng lĩnh vực kỹ thuật được công bố và lưu giữ tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia”.