Phụ nữ chiếm một nửa nhân loại và là lực lượng lao động quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Phụ nữ nước ta hiện chiếm 50,5% dân số, trên 47% lực lượng lao động xã hội[1]. Trải qua hàng trăm năm tranh đấu, ngày nay, quyền của phụ nữ, trong đó có quyền tham gia về chính trị đã được thừa nhận trên phạm vi thế giới, trong đó có Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó Hiến pháp - văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất có quy định về quyền tham gia chính trị của công dân, trong đó có quyền tham gia chính trị của phụ nữ. Nâng cao vị thế của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội nói chung.
1. Những vấn đề chung về quyền tham gia của phụ nữ về chính trị
Tại Đại hội XII, Đảng ta xác định phải “nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp và chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội”[2].
Ngoài ra, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, phấn đấu cán bộ phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp từ 35 - 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến quyền tham gia của cho một chủ thể đặc biệt là phụ nữ về chính trị đảm bảo trên tinh thần bình đẳng giới.
Quyền tham gia chính trị nằm trong nhóm quyền dân sự, chính trị, được quy định tại Điều 25 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948 (UDHR), sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong Điều 21 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR). Quyền tham gia chính trị bao gồm quyền tự do thành lập, theo hoặc không theo một đảng chính trị và quyền bầu cử. Như vậy, quyền tham gia chính trị có thể hiểu là quyền của người dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động quản lý và điều hành đất nước. Đây là một trong những quyền quan trọng nhất của phụ nữ, được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ.
Quyền tham gia của phụ nữ về chính trị thể hiện trong việc lãnh đạo, quản lý, ra quyết định trong hệ thống Đảng và bộ máy nhà nước mà còn tham gia vào các tổ chức đoàn thể: Phụ nữ, Thanh niên, Công đoàn, Hội Nông dân, các Hội, Hiệp hội và các tổ chức xã hội khác; tham gia bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý, được quyền ứng cử vào các cơ quan dân cử; được tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách của Chính phủ, tham gia các chức vụ của Nhà nước và thực hiện mọi chức năng cộng đồng ở tất cả các cấp chính quyền; tham gia vào các tổ chức, hiệp hội phi Chính phủ liên quan đến đời sống cộng đồng và chính trị của đất nước (Công ước quốc tế CEDAW về “Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ”).
2. Quyền tham gia của phụ nữ về chính trị qua các bản Hiến pháp
2.1. Quyền tham gia của phụ nữ về chính trị qua Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp năm 1946 lần đầu tiên đã ghi nhận về quyền bình đẳng giữa đàn bà và đàn ông (trong đó có quyền bình đẳng về chính trị), có ý nghĩa rất lớn đối với phụ nữ trong bối cảnh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời được quy định tại Điều 6: “Mọi công dân đều bình đẳng về quyền trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa” và Điều 9: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Những quy định trên đánh dấu một bước phát triển, là nền tảng quan trọng xác lập về địa vị của người phụ nữ Việt Nam. Đây là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ và góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ trong lịch sự lập hiến Việt Nam.
Hiến pháp năm 1946 dành riêng một số điều trong Chương II (nghĩa vụ và quyền lợi của công dân) quy định các quyền chính trị cơ bản của công dân, trong đó có quyền tham gia của phụ nữ về chính trị được thể hiện qua các điều sau:
Điều 7 Hiến pháp năm 1946 được quy định “tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình”. Quy định này đã thể hiện quyền được tham gia của phụ nữ về chính trị, làm chủ nhà nước Việt Nam sau bao nhiêu năm chống ách áp bức, bóc lột và phá tan xiềng xích tư tưởng “trọng nam kinh nữ” của chế độ phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm trước đó.
Quyền bầu cử và quyền ứng cử của phụ nữ được quy định tại Điều 18: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Điều này khẳng định phụ nữ không chỉ có quyền bầu ra những đại biểu ưu tú đại diện cho nguyện vọng, ý chí của mình mà còn có quyền ứng cử tham gia vào bộ máy nhà nước.
Ngoài ra, phụ nữ còn có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra (Điều 20) và quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều 21); những quy định này nhằm đề cao vai trò quyết định của nhân dân, trong đó có phụ nữ tham gia quyết định đối với vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước.
Như vậy, phụ nữ Việt Nam đã sớm được công nhận quyền tham gia chính trị và được tham gia bầu cử ngay trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của dân tộc. Đồng thời, nhiều phụ nữ đã tham gia vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngay từ khóa đầu tiên sau khi thành lập nước, tạo nền tảng cho sự thực hiện quyền bình đẳng về chính trị cho phụ nữ Việt Nam.
2.2. Quyền tham gia của phụ nữ về chính trị qua Hiến pháp năm 1959
Hiến pháp năm 1959 đã kế thừa và bổ sung, phát triển những quy định của Hiến pháp năm 1946 về các quyền tham gia của phụ nữ về chính trị và được lồng ghép trong quyền của công dân. Hiến pháp năm 1959 cũng ghi nhận về nguyên tắc bình đẳng thể hiện tại Điều 24: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình”. Phụ nữ có quyền tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội của mình. Đó là quyền bầu cử và quyền ứng cử được quy định tại Điều 23 với những bổ sung quan trọng và cần thiết so với Hiến pháp năm 1946. Độ tuổi để được quyền bầu cử và ứng cử giống với độ tuổi đã được quy định trong Hiến pháp năm 1946. Điểm mới trong Hiến pháp năm 1959 quy định một loạt các yếu tố khác ngoài yếu tố giới tính (giống Hiến pháp năm 1946) mà còn có các yếu tố khác như về dân tộc, nguồn gốc xuất thân, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, tình trạng tài sản, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú nhằm tạo cơ hội cho mọi phụ nữ đều được quyền bầu cử và quyền ứng cử “trừ những người mất trí hoặc những người bị Tòa án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử” (Điều 23). Đồng thời, Hiến pháp năm 1959 bỏ điều kiện “phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” mà Hiến pháp năm 1946 đã quy định, vì tới giai đoạn này thì phần lớn dân số, trong đó có phụ nữ đã biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Về quyền bãi miễn đối với đại biểu dân cử: Nếu Hiến pháp năm 1946 quy định trực tiếp quyền của nhân dân được bãi miễn đại biểu mà mình đã bầu ra (Điều 20) thì Hiến pháp năm 1959 quy định quyền này một cách gián tiếp: “Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ nếu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” (Điều 5). So với nội dung quy định tại Điều 20 Hiến pháp năm 1946 (nhân dân thực hiện quyền bãi miễn đại biểu) thì nội dung quy định trong Điều 5 Hiến pháp năm 1959 có một số điểm sửa đổi, bổ sung quan trọng và cần thiết, chỉ có cử tri (trong đó có phụ nữ) có quyền bãi miễn đại biểu dân cử trong thời gian còn nhiệm kỳ đại biểu và chỉ có thể bãi miễn đại biểu dân cử khi đại biểu đó không còn tín nhiệm đối với nhân dân nữa.
Bổ sung thêm các quyền chính trị mới là có quyền lập hội và biểu tình (Điều 25); quyền khiếu nại và quyền tố cáo đối với hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước ở bất cứ cơ quan nhà nước nào (Điều 29), nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho phụ nữ tham gia trong việc tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội như quyền lập các hội, quyền đề nghị xem xét lại hoặc tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời, cũng nâng cao trách nhiệm của tất cả các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền mà nhân dân giao phó.
2.3. Quyền tham gia của phụ nữ về chính trị qua Hiến pháp năm 1980
Hiến pháp năm 1980 tiếp tục ghi nhận và kế thừa những tư tưởng pháp lý về quyền tham gia chính trị của phụ nữ tại các bản Hiến pháp trước đó, thể hiện tại Điều 55 “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, thể hiện sự không phân biệt phụ nữ trong xã hội, phụ nữ bình đẳng với đàn ông trước pháp luật.
Đồng thời, tiếp tục làm rõ, bổ sung và khẳng định, mở rộng quyền tham gia chính trị phụ nữ trong xã hội. Điều 57 quy định “công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Tòa án nhân dân tước các quyền đó”. Ngoài ra, có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân quy định tại Điều 67.
Tuy nhiên, khác với hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959, trong Hiến pháp năm 1980, quyền của phụ nữ vừa được lồng vào các quyền cơ bản của công dân, vừa khẳng định Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia về chính trị. Cụ thể, tại Điều 63 Hiến pháp 1980 quy định: “Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nhà nước và xã hội chăm lo nâng cao đời sống chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội…”. Có thể khẳng định, Hiến pháp năm 1980 là bản Hiến pháp tiến bộ so với các bản Hiến pháp trước, ở đó quyền của phụ nữ nói riêng đã được khẳng định ở tầm cao hơn, cụ thể hơn.
2.4. Quyền tham gia của phụ nữ về chính trị qua Hiến pháp năm 1992
Trong các quy định của Hiến pháp năm 1992, về các quyền chính trị của phụ nữ có những điểm sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm mở rộng cho phù hợp với điều kiện dân chủ hóa xã hội hiện nay ở nước ta, thể hiện như sau:
Thứ nhất, đối với quyền tham gia quản lý của Nhà nước và xã hội: Hiến pháp năm 1992 quy định rõ ràng và cụ thể hơn những công việc mà phụ nữ có thể như quyền thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước, quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý, trong khi Hiến pháp năm 1980 quy định một cách chung chung “công dân có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội” (Điều 56).
Thứ hai, đối với quyền bầu cử và quyền ứng cử (Điều 54): Sửa đổi về tuổi để được bầu cử và được ứng cử thể hiện tại Điều 54 Hiến pháp năm 1992 “công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”, trong khi đó, tại Điều 57 Hiến pháp năm 1980 từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu. Việc sửa đổi này phù hợp với yêu cầu, xu hướng chung; bên cạnh đó, đòi hỏi nâng cao năng lực và trách nhiệm của người đại biểu dân cử trước xu hướng hiện nay, do đó, cả người đi bầu cử lẫn người ứng cử cần đạt độ tuổi nhất định để sáng suốt lựa chọn người có đức, có tài, đủ trình độ, năng lực, sức khỏe, kiến thức xã hội… gánh vác việc nước trước nhân dân nếu như được bầu vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Thứ ba, quyền được bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân khi đại biểu đó không còn tín nhiệm đối với nhân dân: Tại Điều 7 Hiến pháp năm 1992 với sự thay từ “bãi miễn” bằng từ “bãi nhiệm” cho chuẩn xác về ngữ nghĩa. Quyền này của phụ nữ được Hiến pháp quy định một cách gián tiếp: “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm…”. Tuy vậy, quy định này của Hiến pháp vẫn mang tính dân chủ sâu sắc, phản ánh địa vị làm chủ Nhà nước của nhân dân cử tri, của phụ nữ nói riêng.
Thứ tư, quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật: Hiến pháp năm 1992 bổ sung khi phụ nữ thực hiện các quyền này thì phải tuân thủ các quy định của pháp luật; trong khi Hiến pháp năm 1980 chỉ nói đến quyền này vì lợi ích của Nhà nước và nhân dân, mà không đề cập đến quy định của pháp luật.
2.5. Quyền tham gia của phụ nữ về chính trị qua Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục hiến định giống như các bản Hiến pháp trước khẳng định nguyên tắc bình đẳng nữ - nam, nhưng để tạo lập sự bình đẳng thực sự, khoản 1 và khoản 3 Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” và “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Để tạo lập quyền được ưu tiên, khoản 2 Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội”. Từ quy định này, sự bình đẳng và quyền được ưu tiên của phụ nữ đã được thiết lập. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc nhất cho mọi hoạt động lập pháp và thực thi pháp luật trong bảo đảm sự bình đẳng tham gia của phụ nữ về chính trị và sự ưu tiên đối với phụ nữ trên thực tế. Điều này đã làm sâu sắc hơn quyền tham gia chính trị của phụ nữ trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của bản Hiến pháp trước.
Quyền tham gia chính trị của phụ nữ còn được khẳng định cao hơn khi mà các nhà làm luật ở nước ta đã đưa quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân lên Chương II. Theo đó, quyền tham gia chính trị của phụ nữ được khẳng định cụ thể, chặt chẽ và đề cao. Các quyền này được pháp luật và toàn thể xã hội thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Chẳng hạn quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia công việc quản lý nhà nước và xã hội (Điều 27, Điều 28); quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (đối với công dân đủ 18 tuổi trở lên - Điều 29); quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điều 30).
Mặt khác, quy định về quyền tiếp cận thông tin: Theo Điều 25 Hiến pháp năm 2013, công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin. Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định “công dân có quyền được thông tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013 tại Điều 25 đã thay chữ “được thông tin” bằng cụm từ “tiếp cận thông tin”. Nhờ quyền tiếp cận thông tin, mọi công dân, trong đó có phụ nữ có thể tiếp cận thông tin, cả về các quyền thực định cũng như về các hoạt động lập pháp, hành chính, tư pháp, nhằm thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật.
3. Quyền tham gia của phụ nữ về chính trị được thể hiện trên thực tế
Sự tham gia của phụ nữ vào việc quản lý nhà nước ở trung ương: Từ Quốc hội Khóa I chỉ với 10 nữ đại biểu, đến nay, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Khóa XIV là 26,72% - một tỷ lệ khá cao so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam lần đầu tiên có Chủ tịch Quốc hội và 3 ủy viên Bộ Chính trị là nữ; ở cấp tỉnh có 06 Bí thư, 13 Phó Bí thư, 08 Chủ tịch, 30 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, 19 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, 16 Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội là nữ, cùng nhiều nữ cán bộ đảm nhiệm các vị trí trọng trách ở trung ương và địa phương[3]. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nước ta cao hơn hẳn so với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực. Đến tháng 6/2018, trong số 7 quốc gia (Trung Quốc, Cu Ba, Bắc Triều Tiên, Lào, Cộng hòa dân chủ Ả Rập Xarauy, Tuốc-mê-nit-xtan và Việt Nam), Việt Nam đứng thứ 3 về tỷ lệ phụ nữ tham chính cấp quốc gia (24,4%). Trong đó, 100% đại biểu Quốc hội nữ có trình độ đại học trở lên, gần 60% đại biểu nữ có trình độ trên đại học. Thống kê cho thấy, 50% các cơ quan bộ, ngành Trung ương có nữ lãnh đạo chủ chốt. Ở địa phương có 06 đồng chí Bí thư, 13 Phó Bí thư Tỉnh - Thành ủy; 08 Chủ tịch, 30 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; 19 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; 10 Trưởng đoàn, 16 Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội là nữ[4].
Sự tham gia của phụ nữ vào việc quản lý nhà nước ở địa phương: Tỷ lệ phụ nữ tham gia ngày càng tăng trong việc tham chính cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. So sánh kết quả bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp khóa 2016 - 2021 với các khóa trước đều thấy có sự gia tăng tỷ lệ là nữ, cụ thể: cấp xã: 26,59% (tăng 5,86%), cấp huyện: 27,5% (tăng 2,89%,) cấp tỉnh: 26,56% (tăng 1,19%)[5].
Có thể khẳng định, quyền tham gia của phụ nữ về chính trị ở Việt Nam đã được thể hiện đậm nét trong các bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Nội dung các bản hiến pháp đều không quy định cụ thể về quyền tham gia chính trị của phụ nữ, mà lồng ghép vào quyền chính trị của công dân. Các bản Hiến pháp ngày càng quy định đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước ta tham gia, và cũng phù hợp xu hướng hiến định của các nước trong khu vực và quốc tế. Điều này đã thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Nhà nước Việt Nam đối với sự phát triển của phụ nữ Việt Nam trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
Trường Chính trị tỉnh Bình Phước