Bảo vệ bí mật nhà nước (BMNN) là một trong những nội dung quan trọng trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định chính trị và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong thời gian qua, công tác bảo vệ BMNN luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo; thể chế chính sách, pháp luật quy định về công tác này từng bước được hoàn thiện để phù hợp với bối cảnh tình hình trong nước và thế giới. Nhiều văn bản quan trọng về bảo vệ BMNN được ban hành như Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý để phục vụ công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm pháp luật về BMNN. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy hoạt động đánh cắp, chiếm đoạt BMNN tại các cơ quan hành chính nhà nước xảy ra ngày càng nhiều với các thủ đoạn tinh vi, phức tạp, thông qua ứng dụng công nghệ cao, gây nhiều tổn hại cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Công tác bảo vệ BMNN tại các cơ quan hiện nay còn nhiều sơ hở, tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN vẫn diễn ra phức tạp ở nhiều cấp độ khác nhau. Theo thống kê của Bộ Công an, từ năm 2001 đến hết năm 2019, phát hiện hơn 1000 vụ lộ, mất BMNN. Đáng lưu ý là số vụ lộ, lọt BMNN được phát hiện năm sau đều cao hơn năm trước; trong đó, có nhiều tài liệu thuộc danh mục Tuyệt mật, Tối mật liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước[1]. Trong những năm gần đây, qua hoạt động thanh tra tại các bộ, ngành và cơ quan địa phương, Bộ Công an đã phát hiện nhiều vụ lộ, mất BMNN và nhiều lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng.
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, để thực hiện mưu đồ chính trị, các thế lực thù địch, phản động ở trong và ngoài nước đã và đang lợi dụng triệt để internet để thu thập tin tức BMNN; sử dụng kỹ thuật công nghệ cao thông qua internet tấn công, phá hoại cơ sở dữ liệu quan trọng trên mọi lĩnh vực nhằm thực hiện ý đồ chống phá. Điều này đặt ra những thách thức không nhỏ đối với công tác bảo vệ BMNN của cả hệ thống chính trị. Yêu cầu bảo vệ BMNN hiện nay là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nói chung và các cơ quan thi hành án dân sự (THADS) nói riêng.
1. Trách nhiệm và thẩm quyền thực hiện công tác bảo vệ bí mật nhà nước tại các cơ quan, tổ chức
1.1. Trách nhiệm thực hiện
Để thực hiện tốt và có hiệu quả công tác bảo vệ BMNN, đòi hỏi cả hệ thống chính trị, các bộ, ngành và các cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm, tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN. Tại Chương IV Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 quy định cụ thể về trách nhiệm bảo vệ BMNN như sau:
1.1.1. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý bí mật nhà nước
- Ban hành nội quy bảo vệ BMNN trong cơ quan, tổ chức;
- Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quy định của pháp luật và quy chế, nội quy về bảo vệ BMNN trong cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lý;
- Chỉ đạo xử lý và kịp thời thông báo với cơ quan có thẩm quyền khi xảy ra lộ, mất BMNN thuộc phạm vi quản lý;
- Tổ chức thu hồi tài liệu, vật chứa BMNN khi người được phân công quản lý BMNN thôi việc, chuyển công tác, nghỉ hưu, từ trần hoặc vì lý do khác mà không được phân công tiếp tục quản lý BMNN.
1.1.2. Trách nhiệm của người tiếp cận bí mật nhà nước
- Tuân thủ quy định của pháp luật, quy chế, nội quy của cơ quan, tổ chức về bảo vệ BMNN;
- Thực hiện các biện pháp bảo vệ BMNN;
- Sử dụng BMNN đúng mục đích;
- Thực hiện yêu cầu và hướng dẫn của cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý BMNN.
1.1.3. Trách nhiệm của người trực tiếp quản lý bí mật nhà nước
- Thực hiện trách nhiệm quy định của người tiếp cận BMNN;
- Đề xuất người có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp để bảo vệ BMNN do mình trực tiếp quản lý;
- Trường hợp phát hiện vi phạm trong hoạt động bảo vệ BMNN thì người trực tiếp quản lý BMNN phải có biện pháp xử lý và báo cáo người có trách nhiệm giải quyết, thông báo cho cơ quan, tổ chức xác định BMNN biết để có biện pháp khắc phục;
- Trước khi thôi việc, chuyển công tác, nghỉ hưu hoặc vì lý do khác mà không được phân công tiếp tục quản lý BMNN thì phải bàn giao BMNN cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý và cam kết bảo vệ BMNN đã quản lý.
1.2. Thẩm quyền trong thực hiện hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước
Hoạt động bảo vệ BMNN được quy định tại Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 gồm quy định về xác định BMNN và độ mật của BMNN; sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN; thống kê, lưu giữ, bảo quản tài liệu, vật chứa BMNN; vận chuyển, giao, nhận tài liệu, vật chứa BMNN; mang tài liệu, vật chứa BMNN ra khỏi nơi lưu giữ; cung cấp, chuyển giao BMNN cho cơ quan, tổ chức, người Việt Nam được giao thực hiện nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến BMNN; cung cấp, chuyển giao BMNN cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài; hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung BMNN của cơ quan, tổ chức Việt Nam; hội nghị, hội thảo, cuộc họp có yếu tố nước ngoài tổ chức tại Việt Nam có nội dung BMNN; thời hạn bảo vệ BMNN; gia hạn thời hạn bảo vệ BMNN; điều chỉnh độ mật; giải mật; tiêu hủy tài liệu, vật chứa BMNN. Cụ thể, thẩm quyền thực hiện các hoạt động bảo vệ BMNN được quy định như sau:
1.2.1. Việc xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xác định BMNN, độ mật, phạm vi lưu hành, được phép hoặc không được phép sao, chụp văn bản chứa BMNN trên cơ sở đề xuất của người soạn thảo văn bản. Ngoài ra, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 còn quy định ba trường hợp cá biệt trong xác định BMNN: (i) Trường hợp sử dụng BMNN của cơ quan, tổ chức khác thì phải xác định độ mật tương ứng; (ii) Trường hợp thông tin trong cùng một tài liệu, vật chứa BMNN thuộc danh mục BMNN có độ mật khác nhau thì xác định theo độ mật cao nhất; (iii) Trường hợp tiếp nhận thông tin thuộc danh mục BMNN, nhưng chưa được xác định là BMNN thì người tiếp nhận báo cáo người đứng đầu cơ quan, tổ chức để xác định hoặc chuyển đến đơn vị có chức năng xử lý để xác định theo thẩm quyền. Thông tin tiếp nhận phải được bảo vệ trong quá trình tiếp nhận và xử lý.
1.2.2. Sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước
Thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN được quy định tại Điều 11 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018, cụ thể:
- Người có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN độ Tuyệt mật bao gồm: Người đứng đầu cơ quan của Trung ương Đảng; người đứng đầu tổ chức trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng; người đứng đầu cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Tổng Kiểm toán nhà nước; Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; Người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ; Bí thư tỉnh ủy, thành ủy và Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cấp trên trực tiếp của những người quy định tại các điểm a, b, c, h và i khoản 1 Điều 11 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018; người đứng đầu Văn phòng Kiểm toán nhà nước, đơn vị thuộc bộ máy điều hành của Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán nhà nước khu vực; người đứng đầu tổng cục, cục, vụ và tương đương trực thuộc cơ quan quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, g và h khoản 1 Điều 11 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018, trừ người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập; người đứng đầu cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
Theo quy định trên thì trong hệ thống cơ quan THADS, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN độ Tuyệt mật thuộc phạm vi quản lý.
- Người có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN độ Tối mật bao gồm: Những người có thẩm quyền sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN độ Tuyệt mật; người đứng đầu cục, vụ và tương đương thuộc cơ quan thuộc Chính phủ; người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc cơ quan quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, g, h và i khoản 1 Điều 11 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018; người đứng đầu cục, vụ và tương đương thuộc tổng cục và tương đương; người đứng đầu sở, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh và tương đương; người đứng đầu đơn vị trực thuộc Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, trừ người có thẩm quyền quy định tại điểm b khoản 3 Điều này; Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện; Bí thư huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy và Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp nhà nước.
Theo quy định trên thì trong hệ thống cơ quan THADS, Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN độ Tối mật thuộc phạm vi quản lý.
- Người có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN độ Mật bao gồm: Những người có thẩm quyền sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN độ Tối mật; người đứng đầu đơn vị cấp phòng thuộc tổng cục, cục, vụ và tương đương thuộc cơ quan quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i và k khoản 1 Điều 11 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018; Người đứng đầu đơn vị cấp phòng thuộc sở, ban, ngành cấp tỉnh và tương đương; trưởng ban của Hội đồng nhân dân, trưởng phòng của Ủy ban nhân dân cấp huyện và tương đương.
Theo quy định trên thì trong hệ thống cơ quan THADS, Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Trưởng phòng các đơn vị chuyên môn thuộc Cục Thi hành án dân sự; Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN độ Mật thuộc phạm vi quản lý.
Trong đó, lưu ý, người có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN có thể ủy quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN. Việc ủy quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN được thực hiện thường xuyên hoặc theo từng trường hợp cụ thể và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn ủy quyền. Cấp phó được ủy quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN phải chịu trách nhiệm về quyết định cho phép sao, chụp của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật. Người được ủy quyền không được ủy quyền tiếp cho người khác.
1.2.3. Mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ
Việc mang tài liệu, vật chứa BMNN ra khỏi nơi lưu giữ để phục vụ công tác ở trong nước và nước ngoài phải do người có thẩm quyền quyết định theo quy định tại Điều 14 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018. Người mang tài liệu, vật chứa BMNN ra khỏi nơi lưu giữ phải có văn bản xin phép người có thẩm quyền. Trong quá trình mang tài liệu, vật chứa BMNN ra khỏi nơi lưu giữ phải chứa, đựng, vận chuyển bằng phương tiện, thiết bị bảo đảm an toàn do người đứng đầu cơ quan trực tiếp quản lý BMNN quy định. Khi kết thúc nhiệm vụ phải báo cáo người có thẩm quyền về việc quản lý, sử dụng BMNN và nộp lại cơ quan, tổ chức.
Cụ thể, căn cứ Điều 14 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 thì thẩm quyền cho phép mang tài liệu, vật chứa BMNN ra khỏi nơi lưu giữ trong hệ thống các cơ quan THADS được quy định như sau:
- Người đứng đầu cơ quan THADS hoặc cấp phó được ủy quyền có thẩm quyền cho phép mang tài liệu, vật chứa BMNN trực tiếp quản lý ra khỏi nơi lưu giữ để phục vụ công tác ở trong nước.
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp (hoặc Thứ trưởng được ủy quyền) có thẩm quyền cho phép mang tài liệu, vật chứa BMNN do các cơ quan THADS trực tiếp quản lý ra khỏi nơi lưu giữ để phục vụ công tác ở nước ngoài và phải báo cáo Trưởng đoàn công tác.
1.2.4. Cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước
Cơ quan, tổ chức và người Việt Nam được giao thực hiện nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến BMNN được quyền đề nghị cung cấp, chuyển giao BMNN. Đối với cơ quan, tổ chức nước ngoài, BMNN chỉ được cung cấp, chuyển giao cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào chương trình hợp tác quốc tế hoặc thi hành công vụ có liên quan đến BMNN. Thẩm quyền và trình tự, thủ tục cung cấp, chuyển giao BMNN cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quy định tại Điều 15, Điều 16 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018.
Đối với các cơ quan THADS, thẩm quyền cho phép cung cấp, chuyển giao BMNN thuộc phạm vi quản lý được thực hiện như sau:
- Trường hợp cung cấp, chuyển giao BMNN cho các cơ quan, tổ chức và người Việt Nam:
+ Tài liệu, vật chứa BMNN độ Tuyệt mật: Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền cho phép.
+ Tài liệu, vật chứa BMNN độ Tối mật: Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền cho phép.
+ Tài liệu, vật chứa BMNN độ Mật: Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Trưởng phòng các đơn vị chuyên môn thuộc Cục Thi hành án dân sự; Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền cho phép.
- Trường hợp cung cấp, chuyển giao BMNN cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài:
+ Tài liệu, vật chứa BMNN độ Tuyệt mật: Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền cho phép.
+ Tài liệu, vật chứa BMNN độ Tối mật, Mật: Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền cho phép.
1.2.5. Tổ chức hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung bí mật nhà nước
Để khắc phục thực trạng lộ, lọt BMNN qua các hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung BMNN, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 đã có quy định rất chặt chẽ về thẩm quyền, thành phần, địa điểm, sử dụng phương tiện, thiết bị, phương án bảo vệ, việc sử dụng tài liệu BMNN và trách nhiệm của các chủ thể tham gia.
Thứ nhất, việc tổ chức hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung BMNN phải được người có thẩm quyền quyết định.
Thứ hai, thành phần tham dự phải là đại diện cơ quan, tổ chức hoặc người được giao nhiệm vụ liên quan đến BMNN; đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài tham gia vào chương trình hợp tác quốc tế hoặc thi hành công vụ có liên quan đến BMNN.
Thứ ba, người đứng đầu cơ quan, tổ chức quyết định tổ chức hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung BMNN có trách nhiệm bảo đảm các yêu cầu tổ chức hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung BMNN.
Căn cứ các quy định của pháp luật, thẩm quyền cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung BMNN tại các cơ quan THADS được cụ thể hóa như sau:
- Hội nghị, hội thảo, cuộc họp sử dụng nội dung BMNN độ Tuyệt mật: Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền cho phép.
- Hội nghị, hội thảo, cuộc họp sử dụng nội dung BMNN độ Tối mật: Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền cho phép.
- Hội nghị, hội thảo, cuộc họp sử dụng nội dung BMNN độ Mật: Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Trưởng phòng các đơn vị chuyên môn thuộc Cục Thi hành án dân sự; Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền cho phép.
Việc tổ chức hội nghị, hội thảo, cuộc họp của các cơ quan THADS nếu có yếu tố nước ngoài thì trước khi tổ chức phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thủ tướng Chính phủ đối với hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung BMNN độ Tuyệt mật; đối với nội dung BMNN độ Tối mật, Mật phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Tài liệu, vật chứa BMNN phải được thu hồi sau hội nghị, hội thảo, cuộc họp.
1.2.6. Gia hạn, điều chỉnh độ mật, giải mật
Thẩm quyền quyết định thực hiện các hoạt động bảo vệ BMNN như gia hạn thời hạn bảo vệ BMNN, điều chỉnh độ mật và giải mật do người đứng đầu cơ quan, tổ chức quyết định.
Riêng đối với việc giải mật một phần hoặc toàn bộ BMNN để đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; phát triển kinh tế - xã hội; hội nhập, hợp tác quốc tế thì người đứng đầu cơ quan xác định BMNN phải thành lập Hội đồng giải mật. Hội đồng giải mật bao gồm đại diện lãnh đạo cơ quan làm Chủ tịch Hội đồng, đại diện cơ quan, đơn vị có liên quan làm thành viên. Hội đồng giải mật có trách nhiệm xem xét việc giải mật, báo cáo người đứng đầu cơ quan xác định BMNN quyết định.
1.2.7. Tiêu hủy tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước
Thẩm quyền tiêu hủy tài liệu, vật chứa BMNN được quy định tại Điều 23 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018. Trong hệ thống cơ quan THADS, người có thẩm quyền quyết định tiêu hủy tài liệu, vật chứa BMNN gồm: Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền phép tiêu hủy tài liệu, vật chứa BMNN độ Tuyệt mật, Tối mật, Mật thuộc phạm vi quản lý; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền cho phép tiêu hủy tài liệu, vật chứa BMNN độ Tối mật, Mật thuộc phạm vi quản lý.
Người có thẩm quyền cho phép tiêu hủy tài liệu, vật chứa BMNN quyết định thành lập Hội đồng tiêu hủy tài liệu, vật chứa BMNN. Thành viên Hội đồng gồm đại diện lãnh đạo cơ quan trực tiếp lưu giữ tài liệu, vật chứa BMNN làm Chủ tịch Hội đồng; người trực tiếp lưu giữ tài liệu, vật chứa BMNN và đại diện cơ quan, đơn vị có liên quan là thành viên. Hội đồng có trách nhiệm rà soát tài liệu, vật chứa BMNN được đề nghị tiêu hủy để báo cáo người có thẩm quyền quyết định tiêu hủy.
Trong trường hợp tài liệu, vật chứa BMNN nếu không tiêu hủy ngay sẽ gây nguy hại cho lợi ích quốc gia, dân tộc thì người đang quản lý tài liệu, vật chứa BMNN được quyền quyết định tiêu hủy và phải báo cáo ngay bằng văn bản về việc tiêu hủy với người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
2. Áp dụng các quy định về trách nhiệm và thẩm quyền trong công tác bảo vệ bí mật nhà nước tại các cơ quan thi hành án dân sự
2.1. Đánh giá chung tình hình bảo vệ bí mật nhà nước tại các cơ quan Thi hành án dân sự
Trong thời gian qua, xác định vai trò quan trọng của công tác bảo vệ BMNN, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự đã luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác này tại Tổng cục và trong toàn hệ thống THADS. Tổng cục Thi hành án dân sự đã có nhiều văn bản đôn đốc, hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN và an ninh mạng trong hệ thống cơ quan THADS nên cơ bản việc thực hiện công tác này đã dần đi vào nề nếp.
Căn cứ quy định tại Điều 25 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018, ngày 29/6/2022, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã ký Quyết định số 526/QĐ-TCTHADS ban hành Nội quy bảo vệ BMNN tại Tổng cục Thi hành án dân sự. Nội quy đã cụ thể hóa các quy định của pháp luật và Quy chế bảo vệ BMNN của Bộ Tư pháp về trách nhiệm bảo vệ BMNN, trình tự tiếp nhận, chuyển giao, giải quyết tài liệu, vật chứa BMNN; việc soạn thảo, sao, chụp, quản lý, lưu trữ và sử dụng tài liệu, vật chứa BMNN tại Tổng cục Thi hành án dân sự.
Để triển khai Nội quy bảo vệ BMNN, tại các cuộc họp giao ban, Lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự đã thường xuyên yêu cầu Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục nâng cao trách nhiệm, nắm vững và nghiêm túc quán triệt thực hiện quy định đến toàn thể công chức, người lao động tại đơn vị. Văn phòng Tổng cục Thi hành án dân sự là đơn vị đầu mối triển khai và trực tiếp quản lý, hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, bố trí cơ sở vật chất thực hiện công tác bảo vệ BMNN; phân công công chức kiêm nhiệm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ BMNN tại Tổng cục Thi hành án dân sự. Tại phòng Văn thư Tổng cục và khu vực soạn thảo, lưu giữ tài liệu chứa BMNN, Tổng cục Thi hành án dân sự đã in và treo bảng Nội quy bảo vệ BMNN để phổ biến, nâng cao nhận thức cho công chức khi thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến BMNN.
Trên cơ sở hướng dẫn, chỉ đạo của Tổng cục Thi hành án dân sự, các cơ quan THADS địa phương đã nghiên cứu và ban hành Nội quy bảo vệ BMNN tại cơ quan mình. Ngoài việc ban hành Nội quy, một số cơ quan THADS đã có văn bản chỉ đạo, đôn đốc triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật. Những quy định cụ thể trên đã tạo cơ sở để thực hiện nghiêm túc, bài bản công tác bảo vệ BMNN, đồng thời, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn thể công chức, người lao động tại cơ quan.
Trong thời gian qua, tại Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan THADS địa phương, chưa phát hiện xảy ra các vụ lộ, lọt BMNN gây hậu quả nghiêm trọng, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Đa số công chức, người lao động luôn chấp hành tốt sự chỉ đạo của lãnh đạo cơ quan về bảo vệ BMNN; nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
2.2. Hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác bảo vệ BMNN trong Hệ thống cơ quan THADS vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục, đó là:
- Tại một số cơ quan THADS vẫn còn tình trạng Thủ trưởng cơ quan chưa nhận thức đúng, đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng, chưa quan tâm đúng mức đến công tác bảo vệ BMNN (như chưa thường xuyên tổ chức quán triệt, phổ biến về công tác bảo vệ BMNN đến công chức, người lao động; chưa ban hành nội quy và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác bảo vệ BMNN tại cơ quan, đơn vị);
- Việc tổ chức phổ biến, tuyên truyền pháp luật về bảo vệ BMNN đã được thực hiện nhưng chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao, các hình thức phổ biến chưa đa dạng, linh hoạt; chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ;
- Việc triển khai, thực hiện rà soát, phân loại BMNN theo thời gian và độ mật đã được xác định trước ngày 01/01/2019 theo quy định tại Điều 28 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 còn chậm;
- Công tác tập huấn kiến thức chuyên sâu về bảo vệ BMNN đối với công chức, đặc biệt là công chức được phân công nhiệm vụ bảo vệ BMNN chưa được quan tâm chú trọng;
- Việc kiểm tra, tự kiểm tra về công tác bảo vệ BMNN chưa được thực hiện thường xuyên, hiệu quả công tác tự kiểm tra chưa cao;
- Một số công chức, người lao động còn chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ BMNN, thiếu kiến thức về bảo vệ BMNN; bất cẩn khi lưu giữ, sao chụp, cung cấp tài liệu BMNN cho các tổ chức, cá nhân; soạn thảo, gửi nhận tài liệu BMNN trên máy tính kết nối mạng internet; chuyển giao BMNN ra đơn vị bên ngoài chưa đúng quy định; lúng túng trong việc xác định độ mật của văn bản, dẫn đến đóng dấu mật tràn lan hoặc không xác định độ mật đối với văn bản có nội dung BMNN…
- Cơ sở vật chất, hạ tầng, trang thiết bị phục vụ công tác bảo vệ BMNN còn hạn chế, một số đơn vị chưa bố trí đầy đủ máy tính độc lập, máy in, máy photocopy dùng riêng hoặc trang bị các giải pháp bảo mật để phục vụ soạn thảo, lưu trữ và in, sao văn bản, tài liệu chứa BMNN.
3. Giải pháp
3.1. Ban hành Nội quy bảo vệ bí mật nhà nước và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
Các cơ quan THADS cần khẩn trương ban hành Nội quy bảo vệ BMNN và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn để triển khai kịp thời, đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN.
Nội quy bảo vệ BMNN cần tập trung quy định cụ thể các nội dung về quản lý tài liệu, vật chứa BMNN đến (gồm tiếp nhận, đăng ký; trình, chuyển giao; sao, chụp tài liệu, vật chứa BMNN đến); quản lý tài liệu, vật chứa BMNN đi (gồm xác định BMNN và độ mật của BMNN; soạn thảo, làm thủ tục phát hành; thống kê, lưu giữ tài liệu, vật chứa BMNN); bảo quản, sử dụng, cung cấp, chuyển giao BMNN; tiêu hủy tài liệu, vật chứa BMNN; trách nhiệm thực hiện bảo vệ BMNN.
3.2. Xác định rõ trách nhiệm trong công tác bảo vệ bí mật nhà nước
Việc xác định rõ trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân trong thực hiện công tác bảo vệ BMNN là căn cứ để triển khai hiệu quả công tác này tại các cơ quan THADS. Trách nhiệm trong công tác bảo vệ BMNN cụ thể như sau:
3.2.1. Trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự
- Ban hành nội quy bảo vệ BMNN và các văn bản triển khai, hướng dẫn thực hiện;
- Chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện quy định của pháp luật và nội quy về bảo vệ BMNN tại cơ quan và các đơn vị thuộc phạm vi quản lý;
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy định về công tác bảo vệ BMNN cho toàn bộ công chức, người lao động trong cơ quan;
- Chủ động triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống mạng thông tin, ngăn ngừa lộ, mất BMNN;
- Kịp thời phát hiện, ngăn chặn, chỉ đạo xử lý nghiêm các hành vi làm sai lệch, hư hỏng, lộ, mất, lạm dụng thông tin BMNN và thông báo với cơ quan có thẩm quyền khi xảy ra lộ, mất BMNN thuộc phạm vi quản lý;
- Phân công Lãnh đạo cơ quan, đơn vị phụ trách công tác bảo vệ BMNN; bố trí người quản lý văn bản, tài liệu chứa BMNN tại cơ quan, bảo đảm gắn trách nhiệm cá nhân trong thực hiện công tác bảo vệ BMNN tại cơ quan, đơn vị;
- Tổ chức tự kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN tại cơ quan, đơn vị; phát hiện kịp thời và xử lý theo thẩm quyền đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN;
- Tổ chức thu hồi tài liệu, vật chứa BMNN khi người được phân công phụ trách quản lý BMNN thôi việc, chuyển công tác, nghỉ hưu, từ trần hoặc vì lý do khác mà không được phân công tiếp tục quản lý BMNN.
- Tổ chức thực hiện chế độ báo cáo về công tác bảo vệ BMNN theo định kỳ hàng năm hoặc đột xuất theo yêu cầu của cơ quan cấp trên.
3.2.2. Trách nhiệm của Thủ trưởng các phòng chuyên môn thuộc Cục Thi hành án dân sự, người được giao nhiệm vụ phụ trách công tác bảo vệ bí mật nhà nước tại Cục, Chi cục Thi hành án dân sự
- Tham mưu giúp Thủ trưởng cơ quan trong việc triển khai các quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN tại cơ quan, đơn vị;
- Nắm vững kiến thức để chỉ đạo, kịp thời xử lý các tình huống phát sinh liên quan đến BMNN trong thực tiễn tại đơn vị;
- Thường xuyên giám sát, theo dõi, hướng dẫn việc quản lý và sử dụng tài liệu, vật chứa BMNN thuộc phạm vi quản lý.
3.2.3. Trách nhiệm của người tiếp cận, sử dụng bí mật nhà nước tại cơ quan Thi hành án dân sự
- Tuân thủ quy định của pháp luật, nội quy và hướng dẫn của cơ quan về bảo vệ BMNN;
- Thực hiện các biện pháp bảo vệ BMNN khi tiếp cận, lưu giữ, sao chụp, cung cấp tài liệu chứa BMNN; quản lý, sử dụng BMNN đúng mục đích khi thi hành công vụ.
3.2.4. Trách nhiệm của người trực tiếp quản lý bí mật nhà nước tại cơ quan Thi hành án dân sự
Người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý BMNN ngoài thực hiện trách nhiệm của người tiếp cận BMNN thì còn có trách nhiệm sau:
- Đề xuất người có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp để bảo vệ BMNN do mình trực tiếp quản lý;
- Trường hợp phát hiện vi phạm trong hoạt động bảo vệ BMNN thì người trực tiếp quản lý BMNN phải có biện pháp xử lý và báo cáo người có trách nhiệm giải quyết, đồng thời, thông báo cho cơ quan, tổ chức xác định BMNN biết để có biện pháp khắc phục;
- Trước khi thôi việc, chuyển công tác, nghỉ hưu hoặc vì lý do khác mà không được phân công tiếp tục quản lý BMNN thì phải bàn giao BMNN cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý và cam kết bảo vệ BMNN đã quản lý.
3.3. Chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
- Tiếp tục triển khai, thực hiện nghiêm việc xác định, đề xuất độ mật của tài liệu chứa BMNN theo quy định tại Điều 10 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 và Điều 2 Nghị định số 26/2020/NĐ-CP ngày 28/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (Nghị định số 26/2020/NĐ-CP); thực hiện nghiêm các quy định về soạn thảo, sao, chụp, thống kê, lưu giữ, bảo quản, giao, nhận BMNN.
- Triển khai thực hiện việc rà soát, phân loại BMNN theo thời gian và độ mật đã được xác định trước ngày 01/01/2019 để tiến hành gia hạn thời hạn bảo vệ BMNN hoặc giải mật BMNN theo quy định tại Điều 28 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước.
- Thường xuyên rà soát để thực hiện đầy đủ việc thống kê, trích yếu văn bản, tài liệu chứa BMNN hàng năm theo quy định tại Điều 12 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 và Mẫu số 18 ban hành kèm theo Thông tư số 24/2020/TT-BCA ngày 10/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an phục vụ cho công tác khai thác tra cứu văn bản (Thông tư số 24/2020/TT-BCA).
- Rà soát để thực hiện đầy đủ việc lập các loại sổ và ký nhận khi chuyển giao, giao, nhận tài liệu BMNN theo quy định tại Thông tư số 24/2020/TT-BCA và Điều 5 Nghị định số 26/2020/NĐ-CP; trang bị đầy đủ 18 mẫu dấu theo quy định tại Thông tư số 24/2020/TT-BCA.
- Thực hiện việc chuyển giao văn bản chứa BMNN ra đơn vị bên ngoài theo quy định tại khoản 5 Điều 13 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 và Quyết định số 37/2021/QĐ-TTg ngày 18/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về mạng bưu chính.
- Thực hiện việc điều chỉnh độ mật (tăng mật, giảm mật) và giải mật cho văn bản BMNN ban hành sau ngày 01/01/2019 theo quy định tại Điều 21, Điều 22 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018.
3.4. Tăng cường tổ chức kiểm tra, tự kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Việc tổ chức kiểm tra, tự kiểm tra về công tác bảo vệ BMNN tại các đơn vị trực thuộc phải tiến hành theo định kỳ hàng năm; có thể lồng ghép trong các đợt kiểm tra, tự kiểm tra các mặt công tác của cơ quan. Sau kiểm tra phải ban hành Kết luận kiểm tra, tổ chức họp rút kinh nghiệm, kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm và có biện pháp xử lý đối với tổ chức, cá nhân để xảy ra hạn chế, khuyết điểm, vi phạm (nếu có).
3.5. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về bảo vệ bí mật nhà nước
Chủ động tổ chức các hội nghị, lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về bảo vệ BMNN cho toàn thể công chức của cơ quan; chú trọng, tạo điều kiện nâng cao nghiệp vụ bảo vệ BMNN đối với những công chức thường xuyên sử dụng, tiếp xúc với BMNN.
3.6. Bố trí kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ công tác bảo vệ bí mật nhà nước
- Bố trí cơ sở vật chất bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật trong việc soạn thảo, in ấn, sao chụp văn bản chứa BMNN như máy tính, máy in, máy photocopy không kết nối mạng Internet, mạng máy tính, mạng nội bộ; quản lý chặt chẽ các trang thiết bị phục vụ công tác bảo vệ BMNN và có các giải pháp bảo mật trong việc lưu giữ, quản lý, sử dụng hồ sơ chứa BMNN.
- Lập dự toán, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cho công tác bảo vệ BMNN theo quy định tại Điều 6 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 và Thông tư số 110/2013/TT-BTC ngày 14/8/2013 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chuyên môn thuộc công tác bảo vệ BMNN./.
ThS. Nguyễn Thị Thu Lan
Văn phòng Tổng cục Thi hành án dân sự
[1]. Theo Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật Bảo vệ bí mật nhà nước của Bộ Công an, Nxb. Thanh niên, 2020.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 409), tháng 7/2024)