Ngày 10/11/2015 con số 500 vụ tranh chấp giữa các thành viên được chính thức công bố sau 20 năm hoạt động của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây cũng chính là ngày WTO nhận được văn bản khiếu kiện vụ tranh chấp thứ 500 giữa bên nguyên Pakistan yêu cầu bên bị Nam Phi tổ chức tham vấn cho một vụ việc theo đó Pakistan cho rằng Nam Phi đã áp đặt thuế chống phá giá cho xi măng nhập khẩu vào Nam Phi từ Pakistan không phù hợp với luật hay chế độ, thể lệ của WTO. Theo đánh giá của đương kim Tổng Giám đốc WTO, Tiến sỹ Roberto Azevêdo, con số 500 vụ tranh chấp nói lên sự tin tưởng mạnh mẽ của thành viên vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang tính công bằng, tiện ích và có hiệu quả[1].
Bài viết này được chia làm hai phần. Phần một điểm qua cơ chế giải quyết tranh chấp trong môi trường hoạt động của WTO. Phần hai trình bày một số nội dung liên quan đến 500 vụ tranh chấp và kinh nghiệm của Việt Nam trong vấn đề giải quyết tranh chấp ở WTO.
1. Tóm tắt cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Vòng đàm phán Uruguay 1986 - 1994 giữa hơn 100 quốc gia ban đầu đã dẫn đến kết quả Hiệp định thành lập WTO và nhiều hiệp định khác đính kèm Hiệp định này được ký kết vào ngày 15/04/1994 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995. Tư cách thành viên WTO đòi hỏi tất cả thành viên phải tuân thủ Hiệp định thành lập WTO và nhiều hiệp định thương mại đa biên khác. Một trong số các hiệp định thương mại đa biên này là Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp, gọi tắt là DSU (Dispute Settlement Understanding). Cho đến nay, tranh chấp giữa các thành viên WTO hầu hết đều phát sinh từ việc một hoặc một số thành viên này cho rằng luật hay chính sách thương mại (thường đang được áp dụng trong thực tế) của một thành viên khác không đảm bảo thi hành một hoặc một số hiệp định có liên quan của WTO và DSU phải được áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp ấy.
DSU có cấu trúc gồm 27 Điều và 4 Phụ lục. Nội dung cơ bản của DSU gắn với các quy định về phạm vi áp dụng; về cơ quan điều hành; về vấn đề tham vấn; về hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải; về Ban Sơ thẩm, Hội đồng Phúc thẩm và các thủ tục liên quan; về việc thi hành các khuyến nghị, phán quyết đưa ra bởi Cơ quan giải quyết tranh chấp và về các chế tài được áp dụng. Các nội dung này được tóm lược sau đây.
1.1. Về phạm vi áp dụng của DSU
Phạm vi bao phủ của DSU tuân theo các quy định tại Điều 1. Nội dung Điều luật này (bao gồm sự dẫn chiếu tới việc áp dụng Phụ lục 1) cơ bản ghi nhận rằng, bên cạnh các quy tắc, thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung phải tuân theo trong các trường hợp được chỉ ra tại Phụ lục 2, thành viên WTO phải vận dụng các quy tắc và thủ tục của DSU cho các vụ việc được đưa ra theo các quy định về tham vấn và về việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hiệp định có liên quan. Các hiệp định có liên quan theo quy định này gồm: Hiệp định thành lập WTO; Các hiệp định thương mại đa biên (Multilateral Trade Agreements); Các hiệp định thương mại nhiều bên (Plurilateral Trade Agreements).
Trong số các hiệp định nêu trên, các hiệp định thương mại đa biên là một nhóm gồm có bốn hiệp định lớn và mỗi hiệp định lớn này lại có thể bao gồm nhiều hiệp định khác, đó là: Các hiệp định thương mại đa biên về thương mại hàng hóa[2]; Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (gọi tắt là GATS); Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (gọi tắt là TRIPs); Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU)
Tương tự, các hiệp định thương mại nhiều bên là một nhóm gồm bốn hiệp định sau đây: Hiệp định về thương mại máy bay dân dụng; Hiệp định về mua sắm Chính phủ; Hiệp định quốc tế về sữa; Hiệp định quốc tế về thịt bò.
Như vậy, theo quy định trên, trong môi trường hoạt động của WTO, chỉ trừ Hiệp định về cơ chế rà soát chính sách thương mại tuy nằm trong số các hiệp định thương mại đa biên nhưng không được liệt kê phải tuân thủ DSU, tranh chấp giữa các thành viên WTO gắn với bất kỳ hiệp định nào trong số các hiệp định có liên quan nêu trên - đều phải áp dụng, hay tuân thủ các quy tắc và thủ tục quy định tại DSU để giải quyết.
1.2. Về cơ quan quản lý DSU
Quy định về cơ quan quản lý được thể hiện tại Điều 2 DSU. Nội dung chính yếu của Điều luật này ghi nhận việc các thành viên WTO nhất trí thành lập Cơ quan giải quyết tranh chấp, gọi tắt là DSB (Dispute Settlement Body), là cơ quan điều hành DSU. Theo giải thích của WTO, DSB có cơ chế và thủ tục hoạt động theo cơ chế và thủ tục hoạt động của Đại hội đồng là cơ quan tối cao của WTO gồm đại diện của tất cả các thành viên. Phù hợp với thẩm quyền của mình, DSB có quyền thành lập các Ban Sơ thẩm (Panels), Hội đồng Phúc thẩm (Appellate Body) và thông qua báo cáo giải quyết tranh chấp của các Ban Sơ thẩm và Hội đồng Phúc thẩm. Ngoài ra, DSB còn có thẩm quyền duy trì sự giám sát việc thực hiện các quyết định và khuyến nghị đã được đưa ra, cho phép tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hoặc nghĩa vụ khác theo quy định của các hiệp định hay thỏa thuận có liên quan…
1.3. Về vấn đề tham vấn
Các quy định về tham vấn (consultations) được thể hiện tại Điều 4 DSU. Về cơ bản, Điều luật này ghi nhận mỗi thành viên WTO tạo điều kiện tham vấn với thành viên khác một khi đại diện của thành viên khác có yêu cầu tham vấn về biện pháp do thành viên đó đưa ra tác động đến việc thi hành bất kỳ hiệp định có liên quan nào của WTO trong phạm vi lãnh thổ của thành viên đó với yêu cầu tham vấn phải được đưa ra trước khi yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm. Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, thành viên được yêu cầu tham vấn cần trả lời yêu cầu tham vấn trong vòng 10 ngày và cần tham gia tham vấn một cách thiện chí trong thời hạn không quá 30 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Nếu thành viên được yêu cầu tham vấn không thực hiện đúng quy định này, thành viên yêu cầu tham vấn có quyền trực tiếp yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm. Tương tự, nếu việc tham vấn diễn ra giữa các thành viên liên quan nhưng không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn, thành viên yêu cầu tham vấn có quyền yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm. Tuy nhiên, yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm có thể được đưa ra trong thời hạn 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn nếu các bên tham vấn cùng cho rằng việc tham vấn đã không giải quyết được tranh chấp.
Bên cạnh quy định trên, DSU còn dự liệu một khoảng thời gian tham vấn ngắn hơn trong trường hợp khẩn cấp, kể cả khi quan hệ giữa các bên liên quan đến hàng hóa dễ hỏng. Trong trường hợp này, các bên phải tiến hành tham vấn trong thời hạn 10 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Nếu việc tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong thời hạn 20 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên yêu cầu tham vấn có thể yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm.
1.4. Về hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải
Cùng với hoạt động tham vấn là bước đầu tiên để các bên cùng điều đình, giải quyết bất đồng, Điều 5 DSU thừa nhận hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải (good offices, conciliation and meditation) có thể được tiến hành trên cơ sở có sự tự nguyện, đồng ý của các bên. Theo bản chất, hoạt động này nhằm tìm kiếm một người thứ ba giúp các bên tìm ra tiếng nói chung trong quá trình giải quyết tranh chấp với yêu cầu có thể được đưa ra bởi bất kỳ bên nào vào bất cứ thời điểm nào và có thể bắt đầu hoặc chấm dứt vào bất kỳ thời gian nào. Khi thủ tục chấm dứt hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải được thực hiên, bên nguyên có quyền yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm. Trường hợp hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải diễn ra trong phạm vi 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên nguyên chỉ có thể yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm khi đã dành ra một thời gian 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Tuy nhiên, bên nguyên có thể đưa ra yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm trong phạm vi 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn nếu các bên tranh chấp cùng cho rằng hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải đã không giải quyết được tranh chấp. Nếu các bên tán thành thì thủ tục gắn với hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải hoàn toàn có thể diễn ra song song với tiến trình xem xét vụ việc của Ban Sơ thẩm.
1.5. Ban Sơ thẩm và thủ tục sơ thẩm
Một cách tất yếu, các vấn đề liên quan đến Ban Sơ thẩm như việc thành lập, điều khoản tham chiếu, giới hạn công việc, thành phần, chức năng, quy trình, thủ tục làm việc, thông qua báo cáo giải quyết vụ việc… chiếm một lượng lớn các điều khoản trong DSU. Cụ thể, bên cạnh việc áp dụng Phụ lục 3 nói về quy trình làm việc của Ban Sơ thẩm, các nội dung này được quy định tại các Điều 6 đến Điều 16 trong tổng số 27 điều luật của DSU.
* Thành lập, điều khoản tham chiếu, giới hạn công việc và thành phần Ban Sơ thẩm
Điều 6 DSU cơ bản nhấn mạnh Ban Sơ thẩm sẽ được thành lập theo yêu cầu của bên nguyên chậm nhất tại cuộc họp tiếp theo của DSB mà tại cuộc họp đó yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm được đưa ra lần đầu tiên như một đề mục trong chương trình nghị sự. Trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên trong phạm vi 20 ngày kể từ ngày thành lập Ban Sơ thẩm, Ban Sơ thẩm làm việc theo điều khoản tham chiếu với mẫu thể hiện tại Điều 7:1 DSU. Dựa vào điều khoản tham chiếu mẫu này, trong một vụ việc cụ thể, khi Ban Sơ thẩm được thành lập, Chủ tịch DSB có thể soạn thảo điều khoản tham chiếu cho vụ việc ấy theo sự ủy quyền của DSB có tham vấn với các bên tranh chấp và Ban Sơ thẩm sẽ xem xét tất cả các điều khoản được đưa ra bởi các bên xuất phát từ bất kỳ hiệp định có liên quan nào.
Điều 8 DSU quy định Ban Sơ thẩm được cấu thành bởi 03 thành viên, trường hợp có 05 thành viên phải được các bên tranh chấp đồng ý trong vòng 10 ngày kể từ ngày thành lập Ban Sơ thẩm. Thành viên Ban Sơ thẩm có thể là cá nhân thuộc các tổ chức chính phủ hoặc phi chính phủ hội đủ năng lực theo yêu cầu. Nhìn chung, họ phải là những người đã từng làm việc hoặc từng trình một vụ việc trước một ban sơ thẩm hoặc làm đại diện của một thành viên, của một bên ký kết GATT 1947 hoặc đại diện tại Hội đồng hay Ủy ban của bất kỳ hiệp định có liên quan nào hoặc của hiệp định trước hiệp định có liên quan này hoặc từng làm việc trong Ban Thư ký, từng giảng dạy hoặc xuất bản sách báo về luật hay về chính sách thương mại quốc tế hoặc từng là công chức cao cấp về chính sách thương mại của một thành viên. Một danh sách các cá nhân đủ tiêu chuẩn làm thành viên Ban Sơ thẩm được duy trì bởi Ban Thư ký. Ban Thư ký có trách nhiệm đề xuất việc bổ nhiệm thành viên Ban Sơ thẩm và các bên tranh chấp không có quyền phản đối đề xuất này trừ khi có lý do chính đáng. Nếu trong vòng 20 ngày sau ngày thành lập Ban Sơ thẩm mà các bên vẫn không đạt được sự nhất trí về thành viên Ban Sơ thẩm thì theo yêu cầu của bất kỳ bên nào, Tổng Giám đốc WTO - trên cơ sở có sự tham vấn với Chủ tịch DSB hay Chủ tịch Hội đồng, Chủ tịch Ủy ban có liên quan - sẽ quyết định thành phần Ban Sơ thẩm qua việc bổ nhiệm những người được coi là có năng lực tốt nhất để giải quyết vụ việc, tương ứng với bất kỳ quy tắc, thủ tục đặc biệt hay bổ sung nào của bất kỳ hiệp định hay các hiệp định có liên quan nào, sau khi đã tham vấn với các bên tranh chấp. Trường hợp tranh chấp xảy ra giữa một thành viên là nước phát triển và một thành viên là nước đang phát triển, nếu có yêu cầu của thành viên là nước đang phát triển thì Ban Sơ thẩm phải có ít nhất một thành viên đến từ nước đang phát triển.
Tại các Điều 9-10, DSU ghi nhận việc thành lập một hoặc nhiều hơn Ban Sơ thẩm khi có từ hai thành viên trở lên cùng yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm liên quan đến việc giải quyết cùng một vấn đề và việc bất kỳ thành viên nào có một quyền lợi đáng kể trong vụ việc được xem xét bởi Ban Sơ thẩm, một khi đã thông báo quyền lợi của mình cho DSB, đều có thể tham gia vào vụ việc với tư cách là bên thứ ba. Trường hợp bên thứ ba cho rằng có một biện pháp được đưa ra trước đó bởi một Ban Sơ thẩm đã trở nên vô hiệu hoặc gây phương hại đến quyền lợi của mình theo bất kỳ một hiệp định có liên quan nào, bên đó có thể yêu cầu áp dụng trở lại thủ tục giải quyết tranh chấp thông thường và một vụ việc như vậy sẽ được chuyển đến Ban Sơ thẩm ban đầu bất kỳ khi nào có thể.
* Chức năng, quy trình, thủ tục làm việc và thông qua báo cáo của Ban Sơ thẩm
Điều 11 DSU nhấn mạnh chức năng của Ban Sơ thẩm là giúp DSB làm tròn trách nhiệm theo quy định của DSU và của các hiệp định có liên quan. Vì lý do này, Ban Sơ thẩm cần có sự đánh giá khách quan đối với vấn đề được đặt ra, bao gồm đánh giá khách quan các tình tiết của vụ việc, đánh giá khả năng áp dụng của các hiệp định có liên quan và đánh giá khả năng tuân thủ đối với chúng, cũng như cần có những phát kiến khác mà có thể trợ giúp DSB xây dựng các khuyến nghị hoặc đưa ra các phán quyết theo các hiệp định có liên quan. Đồng thời, Ban Sơ thẩm cần thường xuyên tham vấn với các bên tranh chấp và tạo cơ hội thích hợp để có thể phát triển một giải pháp thỏa đáng cho tất cả các bên.
Quy trình làm việc của Ban Sơ thẩm được thể hiện tại Điều 12 DSU với sự dẫn chiếu tới việc áp dụng Phụ lục 3. Nội dung này được quy định khá linh hoạt nhằm bảo đảm cho việc có một báo cáo chất lượng cao mà không làm chậm tiến trình giải quyết vụ việc. Trong vòng một tuần kể từ khi thành phần Ban Sơ thẩm và điều khoản tham chiếu được thông qua, Ban Sơ thẩm phải đưa ra một thời gian biểu cho quá trình làm việc của mình sau khi đã tham vấn các bên tranh chấp. Trong thời gian biểu này, Ban Sơ thẩm cần tạo đủ thời gian để các bên chuẩn bị và ấn định rõ thời điểm để họ đệ trình bản thuyết trình của mình. Các bản thuyết trình này được nộp thông qua Ban Thư ký để từ đó được chuyển ngay đến Ban Sơ thẩm và bên khác trong vụ việc. Về nguyên tắc, bên nguyên phải nộp bản thuyết trình đầu tiên của mình trước khi bên bị làm điều này trừ khi Ban Sơ thẩm - trong thời gian biểu đã được xây dựng - quyết định các bên cần cùng lúc đệ trình bản thuyết trình đầu tiên. Trường hợp việc nộp bản thuyết trình đầu tiên được đưa ra theo thứ tự trước sau, thời gian nhận bản thuyết trình đầu tiên của bên bị phải được ấn định chắc chắn. Sau đó, bất cứ bản thuyết trình tiếp theo nào của các bên đều phải được nộp đồng thời. Trường hợp các bên tranh chấp không tìm ra được một giải pháp làm hài lòng tất cả, Ban Sơ thẩm phải trình lên DSB phát kiến của mình dưới dạng báo cáo bằng văn bản về các tình tiết của vụ việc, về khả năng áp dụng các quy định có liên quan cùng các lý giải cho bất kỳ kết luận hoặc kiến nghị nào. Trường hợp các bên tranh chấp tìm được cách giải quyết vấn đề giữa họ, văn bản đệ trình của Ban Sơ thẩm sẽ chỉ hạn chế ở mức độ mô tả ngắn gọn về vụ việc và ở mức báo cáo rằng vụ việc đã đạt được giải pháp giải quyết.
Thời hạn làm việc của Ban Sơ thẩm - kể từ ngày thành phần và điều khoản tham chiếu được thông qua cho đến ngày báo cáo cuối cùng về vụ việc được chuyển đến các bên tranh chấp - được ấn định là không quá 06 tháng theo quy định chung nhưng trong trường hợp khẩn cấp, bao gồm vụ việc liên quan đến hàng hóa dễ hỏng, mục tiêu đặt ra chỉ là 03 tháng. Nhưng nếu DSB nhận được văn bản thông báo có nêu rõ lý do tại sao Ban Sơ thẩm không thể ra được báo cáo cuối cùng trong vòng 06 tháng hoặc 03 tháng vừa nêu, toàn bộ thời gian kể từ ngày thành phần và điều khoản tham chiếu được thông qua cho đến ngày báo cáo cuối cùng về vụ việc của Ban Sơ thẩm được chuyển đến các bên tranh chấp sẽ không vượt quá 09 tháng.
Bên cạnh một số quy định khác dành cho thành viên tranh chấp là nước đang phát triển, Điều 12:12 DSU đồng thời nhấn mạnh rằng khi được yêu cầu bởi bên nguyên, Ban Sơ thẩm có thể tạm ngừng công việc của mình vào bất kỳ thời điểm nào trong một thời hạn không quá 12 tháng. Khi đó, các thời hạn làm việc 06 tháng, 03 tháng hoặc 09 tháng của Ban Sơ thẩm như dẫn đến ở trên, cũng như thời hạn ra quyết định về vụ việc và ấn định một khoảng thời gian hợp lý để các bên thi hành phán quyết của DSB theo các quy định tương ứng, cũng được kéo dài bằng thời gian công việc được tạm ngừng. Nếu thời hạn tạm ngừng công việc của Ban Sơ thẩm vượt quá 12 tháng, thẩm quyền thành lập Ban Sơ thẩm sẽ chấm dứt hiệu lực.
Ngoài các nội dung nêu trên, DSU còn quy định tại Điều 13 về quyền tìm kiếm thông tin, Điều 14 về tính bảo mật trong quá trình làm việc và Điều 15 về khả năng đưa ra báo cáo sơ bộ giữa kỳ (Interim Report) trước khi Điều 16 đề cập đến báo cáo chính thức khi kết thúc công việc của Ban Sơ thẩm. Theo Điều luật này, DSB chỉ lưu xét báo cáo của Ban Sơ thẩm sau 20 ngày khi báo cáo đó được chuyển đến các thành viên và thành viên nào phản đối báo cáo phải có văn bản nêu rõ lý do phản đối ít nhất 10 ngày trước khi diễn ra phiên họp của DSB tại đó báo cáo của Ban Sơ thẩm sẽ được xem xét. Theo nguyên tắc, báo cáo của Ban Sơ thẩm phải được thông qua tại một phiên họp của DSB trong vòng 60 ngày sau ngày báo cáo đó được chuyển đến các thành viên, trừ trường hợp một bên tranh chấp chính thức thông báo cho DSB quyết định kháng cáo của mình hay trường hợp DSB đồng thuận để quyết định không thông qua báo cáo. Khi đó, DSB sẽ không xét thông qua báo cáo cho tới khi vụ việc hoàn thành thủ tục phúc thẩm.
1.6. Hội đồng Phúc thẩm và thủ tục phúc thẩm
Xung quanh thủ tục rà soát, xem xét lại hay tái giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO, Điều 17 DSU ghi nhận DSB đồng thời là cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng Phúc thẩm Thường trực (Standing Appellate Body) được cấu thành bởi 07 thành viên luân phiên hoạt động theo nguyên tắc một vụ việc được xem xét bởi 03 thành viên. Khác với thành viên Ban Sơ thẩm làm việc theo từng vụ việc, nhìn chung thành viên Hội đồng Phúc thẩm làm việc theo nhiệm kỳ 04 năm và mỗi người có thể được tái cử thêm một nhiệm kỳ. Về căn bản, thành viên Hội đồng Phúc thẩm phải là người có năng lực chuyên môn đã được xác tín vững vàng về luật, về thương mại quốc tế và về chính vấn đề cần giải quyết theo quy định của các hiệp định có liên quan. Họ cũng phải là người không có sự gắn kết với bất kỳ chính phủ nào bên cạnh quan hệ mang tính đại diện cho các quốc gia, vùng lãnh thổ ở WTO và không được tham gia giải quyết bất kỳ tranh chấp nào nếu có thể tạo ra một sự xung đột lợi ích trực tiếp hay gián tiếp.
Theo nguyên tắc, chỉ các bên tranh chấp, không phải bên thứ ba, có quyền chống án báo cáo của Ban Sơ thẩm, nhưng nếu một bên thứ ba, phù hợp với quy định của điều khoản có liên quan, đã thông báo cho DSB một quyền lợi đáng kể của mình thì có thể đệ trình bản thuyết trình tới, và phải được tạo cơ hội để được xem xét vấn đề bởi Hội đồng Phúc thẩm. Nhìn chung, thời hạn giải quyết phúc thẩm không vượt quá 60 ngày kể từ khi một bên chính thức thông báo yêu cầu phúc thẩm cho đến ngày Hội đồng Phúc thẩm ra báo cáo của mình. Trường hợp DSB nhận được văn bản thông báo có nêu rõ lý do tại sao Hội đồng Phúc thẩm không thể ra được báo cáo trong vòng 60 ngày, thời gian tối đa để ra báo cáo trong bất kỳ trường hợp nào cũng sẽ không vượt quá 90 ngày. Do nội dung giải quyết phúc thẩm được giới hạn chỉ đối với các vấn đề về luật và giải thích luật như đã được đưa ra trong báo cáo của Ban Sơ thẩm, Hội đồng Phúc thẩm có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc quyết định ngược lại với các ý kiến và kết luận của Ban Sơ thẩm. Về cơ bản, công việc của Hội đồng Phúc thẩm phải được giữ kín, việc soạn thảo báo cáo phải dựa trên cơ sở các thông tin và sự xác tín đã được đưa ra mà không bao gồm sự hiện diện hay tham gia của các bên tranh chấp với quan điểm của từng cá nhân thành viên Hội đồng Phúc thẩm phải không bao hàm sự ghi tên của người đã đưa ra quan điểm đó.
Khác với báo cáo của Ban Sơ thẩm được thông qua tại một phiên họp của DSB trong vòng 60 ngày sau ngày báo cáo được chuyển tới các thành viên trừ khi có bên tranh chấp thông báo về quyết định phúc thẩm, báo cáo của Hội đồng Phúc thẩm phải được DSB thông qua và được các bên tranh chấp chấp nhận vô điều kiện trong phạm vi 30 ngày sau khi báo cáo được chuyển đến các thành viên. Giống với báo cáo của Ban Sơ thẩm, báo cáo của Hội đồng Phúc thẩm cũng có thể không được thông qua khi có sự đồng thuận của DSB về vấn đề này.
1.7. Việc thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB
Theo Điều 19 DSU, khi báo cáo của Ban Sơ thẩm hay Hội đồng Phúc thẩm kết luận rằng một biện pháp nào đó của một bên tranh chấp là không phù hợp với một hiệp định có liên quan, báo cáo đó cần khuyến nghị, và có thể đưa ra gợi ý về cách thức thực hiện khuyến nghị, rằng thành viên đó cần có sự sửa đổi vấn đề cho thích hợp. Tại Điều 20 DSU ghi nhận một nguyên tắc chung áp dụng trong đa số trường hợp, rằng trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác, thời hạn để DSB ra quyết định về vụ tranh chấp giữa các bên - tính từ ngày Ban Sơ thẩm được thành lập cho đến ngày DSB xem xét thông qua báo cáo của Ban Sơ thẩm hay của Hội đồng Phúc thẩm là không quá 09 tháng trong trường hợp báo cáo của Ban Sơ thẩm không có thông báo yêu cầu phúc thẩm hoặc không quá 12 tháng trong trường hợp có thông báo yêu cầu phúc thẩm.
Tại Điều 21:1 DSU nói về việc thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB trước hết khẳng định nguyên tắc tuân thủ nhanh chóng đối với chúng được xem là cần thiết nhằm bảo đảm việc giải quyết hữu hiệu các tranh chấp vì lợi ích của tất cả thành viên. Sau đó, cụ thể hơn, Điều 21:3 DSU yêu cầu thành viên liên quan thông báo dự định thực hiện các khuyến nghị và phán quyết dành cho mình tại một cuộc họp của DSB được tổ chức trong vòng 30 ngày sau ngày thông qua báo cáo của Ban Sơ thẩm hay của Hội đồng Phúc thẩm. Trường hợp thực tế không thể thực hiện được ngay lập tức các khuyến nghị và phán quyết đó, thành viên liên quan cần phải đưa ra một khoảng thời gian hợp lý dành cho việc tuân thủ chúng. Khoảng thời gian hợp lý trong trường hợp này cần có sự chấp thuận của DSB hoặc được các bên tranh chấp đồng ý nếu không có sự chấp thuận của DSB hoặc được xác định thông qua biện pháp trọng tài trong vòng 90 ngày sau ngày thông qua các khuyến nghị hay phán quyết nếu không đạt được sự đồng ý của các bên. Trừ những tình huống đặc biệt có thể được xem xét để kéo dài hoặc rút ngắn hơn, khoảng thời gian hợp lý đưa ra bởi trọng tài trong trường hợp này phải không quá 15 tháng kể từ ngày thông qua báo cáo của Ban Sơ thẩm hoặc Hội đồng Phúc thẩm.
Tương ứng với quy định trên, Điều 21:4 DSU tiếp tục ghi nhận thời hạn tính từ ngày DSB thành lập Ban Sơ thẩm cho tới ngày quyết định khoảng thời gian hợp lý dành cho việc thi hành các khuyến nghị và phán quyết - trong trường hợp các bên tranh chấp không có thỏa thuận khác - là 15 tháng và không quá 18 tháng trong trường hợp Ban Sơ thẩm hoặc Hội đồng Phúc thẩm được phép gia hạn thời hạn đệ trình báo cáo của mình.
Tại Điều 21:6 DSU cũng xác quyết DSB đồng thời có quyền giám sát việc các bên trong một vụ tranh chấp thi hành các khuyến nghị và phán quyết liên quan. Trừ khi DSB quyết định khác, vấn đề thi hành các khuyến nghị và phán quyết liên quan sẽ được đưa vào chương trình nghị sự tại cuộc họp DSB sau 06 tháng kể từ ngày khoảng thời gian hợp lý dành cho việc tuân thủ các khuyến nghị và phán quyết của các bên được ấn định và sẽ được giữ trong chương trình nghị sự của DSB cho đến khi vấn đề đó được giải quyết. Ít nhất là 10 ngày trước khi diễn ra cuộc họp như vậy của DSB, thành viên liên quan sẽ phải cung cấp cho DSB bản báo cáo tình hình tiến triển của việc thi hành các khuyến nghị và phán quyết đó.
1.8. Việc áp dụng các chế tài
Toàn văn DSU có Điều 22 dài nhất được dành quy định về việc áp dụng chế tài mang tính đền bù (compensation) và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi (the suspension of consessions) của bên tranh chấp này đối với bên tranh chấp khác. Liên quan đến vấn đề này, Điều 22:1 DSU ghi nhận rằng việc đền bù và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hoặc nghĩa vụ khác chỉ là các biện pháp tạm thời khi các khuyến nghị và phán quyết liên quan không được thi hành trong một khoảng thời gian hợp lý và rằng không biện pháp nào trong số các biện pháp này được xem là lựa chọn tốt hơn so với việc thành viên liên quan thi hành đầy đủ một khuyến nghị theo cách sửa đổi một biện pháp nào đó sao cho phù hợp với quy định của hiệp định có liên quan. Bên cạnh đó, điều khoản này cũng nhấn mạnh việc đền bù là tự nguyện và phải phù hợp với quy định của các hiệp định có liên quan trong trường hợp được đưa ra.
Trên cơ sở đó, Điều 22:2 DSU thừa nhận nếu bên liên quan không có sự sửa đổi một biện pháp đã được kết luận là không phù hợp với một hiệp định có liên quan, nói cách khác là không tuân thủ các khuyến nghị và phán quyết đã được đưa ra trong khoảng thời gian hợp lý như đã được xác định thì bên đó - khi được yêu cầu và không chậm hơn ngày hết hạn của khoảng thời gian hợp lý đã được xác định đó - sẽ phải tham gia đàm phán với bất kỳ bên nào đang viện dẫn các thủ tục giải quyết tranh chấp nhằm đưa ra một mức bồi thường hai bên có thể chấp nhận được. Nếu không thỏa thuận được về mức bồi thường này trong phạm vi 20 ngày sau ngày kết thúc khoảng thời gian hợp lý vừa nêu thì bất kỳ bên nào đang viện dẫn các thủ tục giải quyết tranh chấp cũng có thể yêu cầu DSB cho phép tạm hoãn áp dụng các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hoặc nghĩa vụ khác theo hiệp định có liên quan đối với bên đó.
Tại Điều 22:3 DSU đưa một số nguyên tắc và thủ tục mà khi xem xét để tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi nào hay nghĩa vụ nào đối với bên kia thì bên xem xét áp dụng phải đảm bảo tuân thủ. Nguyên tắc tổng quát là bên này trước tiên nên tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hoặc nghĩa vụ khác ở cùng lĩnh vực mà Ban Sơ thẩm hoặc Hội đồng Phúc thẩm đã xác định có vi phạm hoặc triệt tiêu hoặc gây hại. Trường hợp cho rằng không thực tế hoặc không hiệu quả để tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác ở cùng lĩnh vực như vừa nêu, bên đó mới nên tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác ở lĩnh vực khác trong cùng hiệp định có liên quan. Cũng vậy, chỉ khi cho rằng tạm hoãn các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác ở lĩnh vực khác trong cùng hiệp định có liên quan được xem là không thực tế hoặc không hiệu quả và tình huống xảy ra là đủ nghiêm trọng, bên đó mới nên tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác trong hiệp định có liên quan khác.
Nội dung tiếp theo của Điều 22 DSU ghi nhận nhiều vấn đề khác liên quan đến nội dung thi hành các khuyến nghị hay phán quyết của DSB như DSB không thể cho phép tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác nếu hiệp định có liên quan cấm việc tạm hoãn thi hành như vậy (Khoản 5) hay việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác chỉ mang tính tạm thời và chỉ được áp dụng cho tới khi biện pháp được xem là không phù hợp với hiệp định có liên quan đã được loại bỏ, hoặc thành viên phải thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết như thế đưa ra giải pháp đối với việc triệt tiêu hoặc làm phương hại đến các lợi ích, hoặc đạt được một giải pháp thỏa đáng cho cả hai bên (Khoản 8)…
2. Tranh chấp giữa các thành viên sau 20 năm hoạt động của WTO và kinh nghiệm của Việt Nam
2.1. Tóm lược các vụ tranh chấp giữa các thành viên sau 20 năm hoạt động của WTO
Sau đây là tóm lược nội dung 500 vụ tranh chấp xung quanh hoạt động của WTO tính từ ngày 01/01/1995 (ngày WTO chính thức đi vào hoạt động) đến ngày 10/11/2015 (ngày WTO nhận văn bản khiếu nại thứ 500 của bên nguyên Pakistan trước bên bị Nam Phi như đã đề cập đến ở trên). Có ba vấn đề chính được trình bày ở đây gồm số lượng thành viên WTO tham chấp, các giai đoạn diễn tiến của quá trình tham chấp và tỷ lệ thi hành các khuyến nghị, phán quyết từ thành viên tham chấp; sự tham chấp giữa thành viên là nước phát triển và thành viên là nước đang phát triển; tính đa dạng trong yêu cầu tham chấp của bên nguyên và các hiệp định có liên quan được nhắc đến trong quá trình tham chấp.
* Số lượng thành viên tham chấp, các giai đoạn diễn tiến của quá trình tham chấp và tỷ lệ thi hành các khuyến nghị, phán quyết từ thành viên tham chấp
Tính đến ngày 10/11/2015 là ngày WTO nhận văn bản khiếu nại thứ 500 của bên nguyên Pakistan trước bên bị Nam Phi, trong số hơn 160 thành viên WTO có 102 thành viên (63%) từng tham gia tranh chấp với tư cách bên nguyên, bên bị hoặc một bên thứ ba trong đó tỷ lệ thi hành các khuyến nghị, phán quyết của DSB từ các thành viên tham chấp lên tới 90%. Trong số này, có hơn một nửa tổng số vụ (282/500) được giải quyết thông qua con đường tranh tụng sơ thẩm, phúc thẩm và 110 vụ khác được giải quyết thông qua thương lượng giữa các bên hoặc được rút khiếu nại bởi bên nguyên, các vụ còn lại chưa có thông báo cụ thể về kết quả giải quyết.
Là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, Hoa Kỳ đồng thời là thành viên WTO có số vụ tham chấp nhiều nhất trong cộng đồng WTO với 108 vụ quốc gia này tham gia với tư cách bên nguyên, 124 vụ tham gia với tư cách bên bị và 130 vụ tham gia với tư cách một bên thứ ba trong tổng số 500 vụ tham chấp[3]. Theo sát Hoa Kỳ là Cộng đồng Châu Âu (European Communities) với 95 vụ có tư cách bên nguyên, 82 vụ có tư cách bên bị và 155 vụ tham gia với tư cách một bên thứ ba. Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới cũng tham chấp với con số 13 vụ có tư cách bên nguyên, 33 vụ có tư cách bên bị và 129 vụ có tư cách của một bên thứ ba. Đứng sau Hoa Kỳ và Cộng đồng Châu Âu nhưng tương đương với Trung Quốc về số lượng các vụ tham chấp (theo thứ tự tư cách bên nguyên - bên bị - bên thứ ba trong các con số được nêu sau đây) là một số quốc gia khác như Canada: 34-18-110, Brazil: 27-16-99, Mexico: 23-14-75, Ấn Độ: 21-23-116, Nhật Bản: 21-15-159, Argentina: 20-22-59 và Hàn Quốc: 17-15-101.
* Sự tham chấp giữa các thành viên thuộc các nhóm nước khác nhau
Các thành viên WTO trước hết được chia thành nhóm thành viên là nước phát triển và nhóm thành viên là nước đang phát triển. Trong tổng số 500 vụ tranh chấp đã nêu, có sự hiện diện của các thành viên thuộc hai nhóm nước này. Nổi bật trong số các thành viên tham gia tranh chấp là nước phát triển là Hoa Kỳ, Cộng đồng Châu Âu và các nước thành viên, Canada và Nhật Bản trong khi có thể nhắc đến Brazil, Ấn Độ và Mexico như những đại diện tiêu biểu của thành viên là nước đang phát triển tham gia tranh chấp.
Bên cạnh sự phân biệt nhóm các quốc gia hay nền kinh tế mang tính rộng rãi và phổ biến nêu trên, trong môi trường hoạt động của WTO, một thành viên còn có thể thuộc về một hoặc nhiều trong khoảng gần 30 nhóm các quốc gia khác như Nhóm các nước thuộc khối ACP (African, Caribbean and Pacific Countries); Nhóm các nước thuộc Liên hiệp Châu Âu EU (European Union); Nhóm các nước kém phát triển nhất LDCs (Least Developed Countries); Nhóm các nước thuộc khối Cairns (Cairns Group) hay Nhóm các nước G-20 (là nhóm các nước đang phát triển có mục tiêu yêu cầu các nước phát triển tiến hành cải cách mạnh mẽ hơn thể chế nông nghiệp từ đó tạo ra chế độ linh hoạt hơn cho các nước đang phát triển trong việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp để phân biệt với Nhóm G-20 các nền kinh tế lớn trên thế giới).[4]
* Sự đa dạng trong yêu cầu tham chấp của bên nguyên và của các hiệp định có liên quan được áp dụng để giải quyết tranh chấp
Sự trải rộng và đa dạng của các vấn đề thương mại toàn cầu được bao phủ bởi gần 30 hiệp định có liên quan xung quanh hoạt động của WTO. Điều này dẫn đến một thực tế là yêu cầu giải quyết tranh chấp của bên nguyên trong các vụ tham chấp ở WTO cũng mang tính trải rộng và đa dạng. Tuy vậy, các yêu cầu tham chấp của bên nguyên trong tổng số 500 vụ tranh chấp đã nêu đa số tập trung vào các luật và quy lệ của WTO ở hai lĩnh vực là trợ cấp (subsidies) và chống phá giá (anti-dumping). Theo sau hai vấn đề này là các vấn đề khác bao gồm sự vận dụng của chế độ đánh thuế nhập khẩu (tariff regimes); sự đòi hỏi phải đáp ứng các biện pháp bảo đảm an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu đối với hàng hóa từ nước xuất khẩu (food safety measures); việc thực hiện đúng các cam kết về lộ trình mở cửa dịch vụ (commitments in services schedules); các quy tắc buộc phải đảm bảo về dán nhãn thông liệu và đóng gói hàng hóa xuất khẩu (labelling and packaging rules); việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động vật (animal welfare measures) và các yêu cầu buộc phải tuân theo liên quan đến môi trường (environmental schemes).
Dựa vào yêu cầu tham vấn đưa ra ngay từ khi bắt đầu một vụ tham chấp, chỉ có một trong tổng số các vụ tranh chấp ở WTO đã trích dẫn GATT 1947 là tiền thân của GATT 1994. Đây là vụ việc giữa bên nguyên Guatemala và bên bị Mexico, cơ bản liên quan đến việc bên bị đã áp dụng một số biện pháp bắt buộc trong định giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu từ bên nguyên (DS298, 22/07/2003). Các tham chấp khác giữa các thành viên WTO chủ yếu liên quan đến GATT 1994 với con số tính đến thời điểm bài viết này được hoàn thành (06/2016) đã lên tới 412 vụ yêu cầu tham vấn của bên nguyên đối với bên bị xuất phát từ quy định tương ứng tại các hiệp định tiểu tiết thuộc Hiệp định này. Thuộc nhóm các vụ việc này, gần đây nhất có thể kể đến các vụ Brazil yêu cầu Indonesia tham vấn về các biện pháp liên quan đến nhập khẩu thịt bò (DS506, 04/04/2016); Canada yêu cầu Hoa Kỳ tham vấn về các biện pháp đối kháng đối với giấy siêu mỏng (supercalendered paper) nhập khẩu từ Canada (DS505, 30/03/2016); Nhật Bản yêu cầu Hàn Quốc tham vấn về các biện pháp chống phá giá đối với van hơi (pneumatic valves) nhập khẩu từ Nhật Bản (DS504, 15/03/2016); Liên hiệp Châu Âu yêu cầu Columbia tham vấn về các biện pháp áp dụng đối với rượu mạnh nhập khẩu từ Liên hiệp Châu Âu (DS502, 13/01/2016); Hoa Kỳ yêu cầu Trung Quốc tham vấn về các biện pháp thuế liên quan đến máy bay dân dụng sản xuất trong nước (DS501, 08/12/2015)…
Ngoài các trường hợp nêu trên, các hiệp định có liên quan được trích dẫn ngay từ khi khởi đầu, hay được thể hiện trong yêu cầu tham vấn của bên nguyên đối với bên bị trong quá trình giải quyết tranh chấp ở WTO còn bao gồm các hiệp định cụ thể khác như Hiệp định về nông nghiệp (79 vụ); Hiệp định thành lập WTO (57 vụ); Hiệp định về rào cản kỹ thuật đối với thương mại hay TBT (52 vụ); Hiệp định về cấp phép nhập khẩu (45 vụ); Hiệp định về việc áp dụng biện pháp kiểm dịch thực động vật (44 vụ); Hiệp định về biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hay TRIMs (41 vụ); Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ hay TRIPs (34 vụ); Hiệp định chung về thương mại dịch vụ hay GATS (24 vụ); Hiệp định về hàng dệt và may mặc (16 vụ); Hiệp định về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp hay DSU (15 vụ); Hiệp định về mua sắm Chính phủ (04 vụ)…
2.2. Kinh nghiệm của Việt Nam trong hoạt động giải quyết tranh chấp ở WTO
Kể từ khi chính thức trở thành thành viên đầy đủ của WTO (ngày 11/01/2007) cho đến nay, bên cạnh 22 vụ tham gia với tư cách một bên thứ ba, Việt Nam tham chấp 03 vụ đều với tư cách bên nguyên, không có vụ nào với tư cách bên bị. Như vậy, ít nhất có thể nói rằng Việt Nam đã rất tôn trọng, hay đã chưa để một thành viên nào phải phàn nàn, khiếu kiện về việc chúng ta đã thi hành không tốt, không đầy đủ các quy chế, thể lệ hay các luật của WTO. Phần này của bài viết chỉ đi sâu hơn vào ba vụ tham chấp với tư cách bên nguyên của Việt Nam.
Trong ba vụ tranh chấp này, hai vụ đã được giải quyết đều liên quan đến việc Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp chống phá giá (anti-dumping) đối với một số loại tôm nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ Việt Nam, vụ thứ ba gần đây nhất đang trong quá trình giải quyết gắn với việc Indonesia áp dụng thuế nhập khẩu thép từ Việt Nam vào Indonesia.
Trong vụ việc thứ nhất (DS404), Việt Nam khởi đơn yêu cầu Hoa Kỳ tổ chức tham vấn vào ngày 01/02/2010. Sau đó, vụ việc này được nhiều thành viên khác tham gia với tư cách bên thứ ba, đó là Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico và Thái Lan. Các hiệp định với các điều khoản có liên quan được Việt Nam trích dẫn trong yêu cầu tham vấn gồm Hiệp định về chống phá giá; Hiệp định chung về thuế quan và thương mại hay GATT 1994; Hiệp định thành lập WTO và Nghị định thư về việc gia nhập WTO của Việt Nam. Tiến trình giải quyết vụ việc dừng lại ở giai đoạn Báo cáo của Ban Sơ thẩm được chuyển đến các bên tham chấp ngày 19/05/2011, được chuyển đến tất cả thành viên DSB ngày 11/07/2011 và được DSB thông qua ngày 02/09/2011. Tại cuộc họp của DSB ngày 27/09/2011, Hoa Kỳ khẳng định sẽ thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB trong vụ việc với Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các nghĩa vụ của Hoa Kỳ ở WTO nhưng cần một thời hạn hợp lý cho việc thi hành đó. Kết quả là vào ngày 31/10/2011, Việt Nam và Hoa Kỳ đã cùng thông báo đến DSB rằng, hai bên đã đạt được thỏa thuận về thời hạn hợp lý để Hoa Kỳ thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB trong vụ việc là 10 tháng. Như vậy, thời hạn này trong thực tế đã kết thúc từ ngày 02/07/2012.
Trong vụ việc thứ hai (DS429), Việt Nam khởi đơn yêu cầu Hoa Kỳ tổ chức tham vấn vào ngày 20/02/2012. Các thành viên khác tham gia với tư cách bên thứ ba trong vụ việc này gồm Trung Quốc, Ecuador, Liên hiệp Châu Âu, Nhật Bản, Na Uy và Thái Lan. Bốn hiệp định có liên quan với các quy định cụ thể được Việt Nam trích dẫn trong yêu cầu Hoa Kỳ tham vấn là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại hay GATT 1994; Hiệp định về chống phá giá; Hiệp định thành lập WTO và Hiệp định về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU). Trên cơ sở Báo cáo của Ban Sơ thẩm được chuyển đến các thành viên ngày 17/11/2014, Việt Nam đã thông báo quyết định phúc thẩm của mình vào ngày 06/01/2015. Báo cáo của Hội đồng Phúc thẩm được chuyển đến các thành viên ngày 07/04/2015 và được DSB thông qua ngày 22/04/2015 đồng thời với việc thông qua Báo cáo của Ban Sơ thẩm bởi trong Báo cáo của mình Hội đồng Phúc thẩm đã xác tín Báo cáo của Ban Sơ thẩm về vụ việc.
Tại cuộc họp của DSB ngày 20/05/2015, Hoa Kỳ thông báo cho DSB ý định thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB trong vụ việc với Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các nghĩa vụ của Hoa Kỳ ở WTO nhưng cần một thời hạn hợp lý cho việc thi hành đó. Đáp lại, Việt Nam yêu cầu thời hạn hợp lý để Hoa Kỳ thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB về vụ việc nên được xác định bởi trọng tài phù hợp với quy định tại Điều 21.3(c) DSU. Đây là cơ sở để Báo cáo Trọng tài về nội dung yêu cầu được chuyển đến tất cả thành viên ngày 15/12/2015. Báo cáo này xác định 15 tháng kể từ khi Báo cáo Sơ thẩm và Phúc thẩm về vụ việc được DSB thông qua, như vậy, thời hạn hợp lý để Hoa Kỳ thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB về vụ việc sẽ kết thúc ngày 22/07/2016. Tuy nhiên, Việt Nam và Hoa Kỳ đã cùng thông báo cho DSB rằng, hai bên đã đạt được một thỏa thuận cùng có lợi theo đó đồng ý sửa đổi ngày kết thúc thời hạn đã nêu đối với Hoa Kỳ sẽ là ngày 22/08/2016.
Trong vụ việc thứ ba (DS496), Việt Nam khởi đơn yêu cầu Indonesia tổ chức tham vấn vào ngày 01/06/2015. Các thành viên khác tham gia với tư cách bên thứ ba trong vụ việc này gồm có Hoa Kỳ, Liên hiệp Châu Âu, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc, Chile, Úc, Nhật Bản và Đài Loan. Các hiệp định có liên quan với các điều khoản cụ thể được Việt Nam trích dẫn trong yêu cầu tổ chức tham vấn về vụ việc này là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại hay GATT 1994 và Hiệp định về các biện pháp tự vệ. Về mặt thời gian, vụ việc này đang trong giai đoạn khởi đầu với Ban Sơ thẩm được thành lập ngày 09/12/2015 theo quyết định của Tổng Giám đốc WTO dựa trên cơ sở đồng yêu cầu (gửi ngày 01/12/2015) của Việt Nam (với tư cách bên nguyên) và Đài Loan (với tư cách một bên thứ ba). Có lẽ, cần phải một thời gian đáng kể nữa theo quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO tại DSU như đã được trình bày ở các phần tương ứng bên trên để vụ việc được giải quyết theo nghĩa vụ và quyền lợi của Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức và đầy đủ của WTO kể từ ngày 11/01/2007.
Bài viết này được chia làm hai phần. Phần một điểm qua cơ chế giải quyết tranh chấp trong môi trường hoạt động của WTO. Phần hai trình bày một số nội dung liên quan đến 500 vụ tranh chấp và kinh nghiệm của Việt Nam trong vấn đề giải quyết tranh chấp ở WTO.
1. Tóm tắt cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Vòng đàm phán Uruguay 1986 - 1994 giữa hơn 100 quốc gia ban đầu đã dẫn đến kết quả Hiệp định thành lập WTO và nhiều hiệp định khác đính kèm Hiệp định này được ký kết vào ngày 15/04/1994 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995. Tư cách thành viên WTO đòi hỏi tất cả thành viên phải tuân thủ Hiệp định thành lập WTO và nhiều hiệp định thương mại đa biên khác. Một trong số các hiệp định thương mại đa biên này là Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp, gọi tắt là DSU (Dispute Settlement Understanding). Cho đến nay, tranh chấp giữa các thành viên WTO hầu hết đều phát sinh từ việc một hoặc một số thành viên này cho rằng luật hay chính sách thương mại (thường đang được áp dụng trong thực tế) của một thành viên khác không đảm bảo thi hành một hoặc một số hiệp định có liên quan của WTO và DSU phải được áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp ấy.
DSU có cấu trúc gồm 27 Điều và 4 Phụ lục. Nội dung cơ bản của DSU gắn với các quy định về phạm vi áp dụng; về cơ quan điều hành; về vấn đề tham vấn; về hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải; về Ban Sơ thẩm, Hội đồng Phúc thẩm và các thủ tục liên quan; về việc thi hành các khuyến nghị, phán quyết đưa ra bởi Cơ quan giải quyết tranh chấp và về các chế tài được áp dụng. Các nội dung này được tóm lược sau đây.
1.1. Về phạm vi áp dụng của DSU
Phạm vi bao phủ của DSU tuân theo các quy định tại Điều 1. Nội dung Điều luật này (bao gồm sự dẫn chiếu tới việc áp dụng Phụ lục 1) cơ bản ghi nhận rằng, bên cạnh các quy tắc, thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung phải tuân theo trong các trường hợp được chỉ ra tại Phụ lục 2, thành viên WTO phải vận dụng các quy tắc và thủ tục của DSU cho các vụ việc được đưa ra theo các quy định về tham vấn và về việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hiệp định có liên quan. Các hiệp định có liên quan theo quy định này gồm: Hiệp định thành lập WTO; Các hiệp định thương mại đa biên (Multilateral Trade Agreements); Các hiệp định thương mại nhiều bên (Plurilateral Trade Agreements).
Trong số các hiệp định nêu trên, các hiệp định thương mại đa biên là một nhóm gồm có bốn hiệp định lớn và mỗi hiệp định lớn này lại có thể bao gồm nhiều hiệp định khác, đó là: Các hiệp định thương mại đa biên về thương mại hàng hóa[2]; Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (gọi tắt là GATS); Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (gọi tắt là TRIPs); Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU)
Tương tự, các hiệp định thương mại nhiều bên là một nhóm gồm bốn hiệp định sau đây: Hiệp định về thương mại máy bay dân dụng; Hiệp định về mua sắm Chính phủ; Hiệp định quốc tế về sữa; Hiệp định quốc tế về thịt bò.
Như vậy, theo quy định trên, trong môi trường hoạt động của WTO, chỉ trừ Hiệp định về cơ chế rà soát chính sách thương mại tuy nằm trong số các hiệp định thương mại đa biên nhưng không được liệt kê phải tuân thủ DSU, tranh chấp giữa các thành viên WTO gắn với bất kỳ hiệp định nào trong số các hiệp định có liên quan nêu trên - đều phải áp dụng, hay tuân thủ các quy tắc và thủ tục quy định tại DSU để giải quyết.
1.2. Về cơ quan quản lý DSU
Quy định về cơ quan quản lý được thể hiện tại Điều 2 DSU. Nội dung chính yếu của Điều luật này ghi nhận việc các thành viên WTO nhất trí thành lập Cơ quan giải quyết tranh chấp, gọi tắt là DSB (Dispute Settlement Body), là cơ quan điều hành DSU. Theo giải thích của WTO, DSB có cơ chế và thủ tục hoạt động theo cơ chế và thủ tục hoạt động của Đại hội đồng là cơ quan tối cao của WTO gồm đại diện của tất cả các thành viên. Phù hợp với thẩm quyền của mình, DSB có quyền thành lập các Ban Sơ thẩm (Panels), Hội đồng Phúc thẩm (Appellate Body) và thông qua báo cáo giải quyết tranh chấp của các Ban Sơ thẩm và Hội đồng Phúc thẩm. Ngoài ra, DSB còn có thẩm quyền duy trì sự giám sát việc thực hiện các quyết định và khuyến nghị đã được đưa ra, cho phép tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hoặc nghĩa vụ khác theo quy định của các hiệp định hay thỏa thuận có liên quan…
1.3. Về vấn đề tham vấn
Các quy định về tham vấn (consultations) được thể hiện tại Điều 4 DSU. Về cơ bản, Điều luật này ghi nhận mỗi thành viên WTO tạo điều kiện tham vấn với thành viên khác một khi đại diện của thành viên khác có yêu cầu tham vấn về biện pháp do thành viên đó đưa ra tác động đến việc thi hành bất kỳ hiệp định có liên quan nào của WTO trong phạm vi lãnh thổ của thành viên đó với yêu cầu tham vấn phải được đưa ra trước khi yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm. Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, thành viên được yêu cầu tham vấn cần trả lời yêu cầu tham vấn trong vòng 10 ngày và cần tham gia tham vấn một cách thiện chí trong thời hạn không quá 30 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Nếu thành viên được yêu cầu tham vấn không thực hiện đúng quy định này, thành viên yêu cầu tham vấn có quyền trực tiếp yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm. Tương tự, nếu việc tham vấn diễn ra giữa các thành viên liên quan nhưng không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn, thành viên yêu cầu tham vấn có quyền yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm. Tuy nhiên, yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm có thể được đưa ra trong thời hạn 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn nếu các bên tham vấn cùng cho rằng việc tham vấn đã không giải quyết được tranh chấp.
Bên cạnh quy định trên, DSU còn dự liệu một khoảng thời gian tham vấn ngắn hơn trong trường hợp khẩn cấp, kể cả khi quan hệ giữa các bên liên quan đến hàng hóa dễ hỏng. Trong trường hợp này, các bên phải tiến hành tham vấn trong thời hạn 10 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Nếu việc tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong thời hạn 20 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên yêu cầu tham vấn có thể yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm.
1.4. Về hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải
Cùng với hoạt động tham vấn là bước đầu tiên để các bên cùng điều đình, giải quyết bất đồng, Điều 5 DSU thừa nhận hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải (good offices, conciliation and meditation) có thể được tiến hành trên cơ sở có sự tự nguyện, đồng ý của các bên. Theo bản chất, hoạt động này nhằm tìm kiếm một người thứ ba giúp các bên tìm ra tiếng nói chung trong quá trình giải quyết tranh chấp với yêu cầu có thể được đưa ra bởi bất kỳ bên nào vào bất cứ thời điểm nào và có thể bắt đầu hoặc chấm dứt vào bất kỳ thời gian nào. Khi thủ tục chấm dứt hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải được thực hiên, bên nguyên có quyền yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm. Trường hợp hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải diễn ra trong phạm vi 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên nguyên chỉ có thể yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm khi đã dành ra một thời gian 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Tuy nhiên, bên nguyên có thể đưa ra yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm trong phạm vi 60 ngày sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn nếu các bên tranh chấp cùng cho rằng hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải đã không giải quyết được tranh chấp. Nếu các bên tán thành thì thủ tục gắn với hoạt động trung gian, dàn xếp, hòa giải hoàn toàn có thể diễn ra song song với tiến trình xem xét vụ việc của Ban Sơ thẩm.
1.5. Ban Sơ thẩm và thủ tục sơ thẩm
Một cách tất yếu, các vấn đề liên quan đến Ban Sơ thẩm như việc thành lập, điều khoản tham chiếu, giới hạn công việc, thành phần, chức năng, quy trình, thủ tục làm việc, thông qua báo cáo giải quyết vụ việc… chiếm một lượng lớn các điều khoản trong DSU. Cụ thể, bên cạnh việc áp dụng Phụ lục 3 nói về quy trình làm việc của Ban Sơ thẩm, các nội dung này được quy định tại các Điều 6 đến Điều 16 trong tổng số 27 điều luật của DSU.
* Thành lập, điều khoản tham chiếu, giới hạn công việc và thành phần Ban Sơ thẩm
Điều 6 DSU cơ bản nhấn mạnh Ban Sơ thẩm sẽ được thành lập theo yêu cầu của bên nguyên chậm nhất tại cuộc họp tiếp theo của DSB mà tại cuộc họp đó yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm được đưa ra lần đầu tiên như một đề mục trong chương trình nghị sự. Trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên trong phạm vi 20 ngày kể từ ngày thành lập Ban Sơ thẩm, Ban Sơ thẩm làm việc theo điều khoản tham chiếu với mẫu thể hiện tại Điều 7:1 DSU. Dựa vào điều khoản tham chiếu mẫu này, trong một vụ việc cụ thể, khi Ban Sơ thẩm được thành lập, Chủ tịch DSB có thể soạn thảo điều khoản tham chiếu cho vụ việc ấy theo sự ủy quyền của DSB có tham vấn với các bên tranh chấp và Ban Sơ thẩm sẽ xem xét tất cả các điều khoản được đưa ra bởi các bên xuất phát từ bất kỳ hiệp định có liên quan nào.
Điều 8 DSU quy định Ban Sơ thẩm được cấu thành bởi 03 thành viên, trường hợp có 05 thành viên phải được các bên tranh chấp đồng ý trong vòng 10 ngày kể từ ngày thành lập Ban Sơ thẩm. Thành viên Ban Sơ thẩm có thể là cá nhân thuộc các tổ chức chính phủ hoặc phi chính phủ hội đủ năng lực theo yêu cầu. Nhìn chung, họ phải là những người đã từng làm việc hoặc từng trình một vụ việc trước một ban sơ thẩm hoặc làm đại diện của một thành viên, của một bên ký kết GATT 1947 hoặc đại diện tại Hội đồng hay Ủy ban của bất kỳ hiệp định có liên quan nào hoặc của hiệp định trước hiệp định có liên quan này hoặc từng làm việc trong Ban Thư ký, từng giảng dạy hoặc xuất bản sách báo về luật hay về chính sách thương mại quốc tế hoặc từng là công chức cao cấp về chính sách thương mại của một thành viên. Một danh sách các cá nhân đủ tiêu chuẩn làm thành viên Ban Sơ thẩm được duy trì bởi Ban Thư ký. Ban Thư ký có trách nhiệm đề xuất việc bổ nhiệm thành viên Ban Sơ thẩm và các bên tranh chấp không có quyền phản đối đề xuất này trừ khi có lý do chính đáng. Nếu trong vòng 20 ngày sau ngày thành lập Ban Sơ thẩm mà các bên vẫn không đạt được sự nhất trí về thành viên Ban Sơ thẩm thì theo yêu cầu của bất kỳ bên nào, Tổng Giám đốc WTO - trên cơ sở có sự tham vấn với Chủ tịch DSB hay Chủ tịch Hội đồng, Chủ tịch Ủy ban có liên quan - sẽ quyết định thành phần Ban Sơ thẩm qua việc bổ nhiệm những người được coi là có năng lực tốt nhất để giải quyết vụ việc, tương ứng với bất kỳ quy tắc, thủ tục đặc biệt hay bổ sung nào của bất kỳ hiệp định hay các hiệp định có liên quan nào, sau khi đã tham vấn với các bên tranh chấp. Trường hợp tranh chấp xảy ra giữa một thành viên là nước phát triển và một thành viên là nước đang phát triển, nếu có yêu cầu của thành viên là nước đang phát triển thì Ban Sơ thẩm phải có ít nhất một thành viên đến từ nước đang phát triển.
Tại các Điều 9-10, DSU ghi nhận việc thành lập một hoặc nhiều hơn Ban Sơ thẩm khi có từ hai thành viên trở lên cùng yêu cầu thành lập Ban Sơ thẩm liên quan đến việc giải quyết cùng một vấn đề và việc bất kỳ thành viên nào có một quyền lợi đáng kể trong vụ việc được xem xét bởi Ban Sơ thẩm, một khi đã thông báo quyền lợi của mình cho DSB, đều có thể tham gia vào vụ việc với tư cách là bên thứ ba. Trường hợp bên thứ ba cho rằng có một biện pháp được đưa ra trước đó bởi một Ban Sơ thẩm đã trở nên vô hiệu hoặc gây phương hại đến quyền lợi của mình theo bất kỳ một hiệp định có liên quan nào, bên đó có thể yêu cầu áp dụng trở lại thủ tục giải quyết tranh chấp thông thường và một vụ việc như vậy sẽ được chuyển đến Ban Sơ thẩm ban đầu bất kỳ khi nào có thể.
* Chức năng, quy trình, thủ tục làm việc và thông qua báo cáo của Ban Sơ thẩm
Điều 11 DSU nhấn mạnh chức năng của Ban Sơ thẩm là giúp DSB làm tròn trách nhiệm theo quy định của DSU và của các hiệp định có liên quan. Vì lý do này, Ban Sơ thẩm cần có sự đánh giá khách quan đối với vấn đề được đặt ra, bao gồm đánh giá khách quan các tình tiết của vụ việc, đánh giá khả năng áp dụng của các hiệp định có liên quan và đánh giá khả năng tuân thủ đối với chúng, cũng như cần có những phát kiến khác mà có thể trợ giúp DSB xây dựng các khuyến nghị hoặc đưa ra các phán quyết theo các hiệp định có liên quan. Đồng thời, Ban Sơ thẩm cần thường xuyên tham vấn với các bên tranh chấp và tạo cơ hội thích hợp để có thể phát triển một giải pháp thỏa đáng cho tất cả các bên.
Quy trình làm việc của Ban Sơ thẩm được thể hiện tại Điều 12 DSU với sự dẫn chiếu tới việc áp dụng Phụ lục 3. Nội dung này được quy định khá linh hoạt nhằm bảo đảm cho việc có một báo cáo chất lượng cao mà không làm chậm tiến trình giải quyết vụ việc. Trong vòng một tuần kể từ khi thành phần Ban Sơ thẩm và điều khoản tham chiếu được thông qua, Ban Sơ thẩm phải đưa ra một thời gian biểu cho quá trình làm việc của mình sau khi đã tham vấn các bên tranh chấp. Trong thời gian biểu này, Ban Sơ thẩm cần tạo đủ thời gian để các bên chuẩn bị và ấn định rõ thời điểm để họ đệ trình bản thuyết trình của mình. Các bản thuyết trình này được nộp thông qua Ban Thư ký để từ đó được chuyển ngay đến Ban Sơ thẩm và bên khác trong vụ việc. Về nguyên tắc, bên nguyên phải nộp bản thuyết trình đầu tiên của mình trước khi bên bị làm điều này trừ khi Ban Sơ thẩm - trong thời gian biểu đã được xây dựng - quyết định các bên cần cùng lúc đệ trình bản thuyết trình đầu tiên. Trường hợp việc nộp bản thuyết trình đầu tiên được đưa ra theo thứ tự trước sau, thời gian nhận bản thuyết trình đầu tiên của bên bị phải được ấn định chắc chắn. Sau đó, bất cứ bản thuyết trình tiếp theo nào của các bên đều phải được nộp đồng thời. Trường hợp các bên tranh chấp không tìm ra được một giải pháp làm hài lòng tất cả, Ban Sơ thẩm phải trình lên DSB phát kiến của mình dưới dạng báo cáo bằng văn bản về các tình tiết của vụ việc, về khả năng áp dụng các quy định có liên quan cùng các lý giải cho bất kỳ kết luận hoặc kiến nghị nào. Trường hợp các bên tranh chấp tìm được cách giải quyết vấn đề giữa họ, văn bản đệ trình của Ban Sơ thẩm sẽ chỉ hạn chế ở mức độ mô tả ngắn gọn về vụ việc và ở mức báo cáo rằng vụ việc đã đạt được giải pháp giải quyết.
Thời hạn làm việc của Ban Sơ thẩm - kể từ ngày thành phần và điều khoản tham chiếu được thông qua cho đến ngày báo cáo cuối cùng về vụ việc được chuyển đến các bên tranh chấp - được ấn định là không quá 06 tháng theo quy định chung nhưng trong trường hợp khẩn cấp, bao gồm vụ việc liên quan đến hàng hóa dễ hỏng, mục tiêu đặt ra chỉ là 03 tháng. Nhưng nếu DSB nhận được văn bản thông báo có nêu rõ lý do tại sao Ban Sơ thẩm không thể ra được báo cáo cuối cùng trong vòng 06 tháng hoặc 03 tháng vừa nêu, toàn bộ thời gian kể từ ngày thành phần và điều khoản tham chiếu được thông qua cho đến ngày báo cáo cuối cùng về vụ việc của Ban Sơ thẩm được chuyển đến các bên tranh chấp sẽ không vượt quá 09 tháng.
Bên cạnh một số quy định khác dành cho thành viên tranh chấp là nước đang phát triển, Điều 12:12 DSU đồng thời nhấn mạnh rằng khi được yêu cầu bởi bên nguyên, Ban Sơ thẩm có thể tạm ngừng công việc của mình vào bất kỳ thời điểm nào trong một thời hạn không quá 12 tháng. Khi đó, các thời hạn làm việc 06 tháng, 03 tháng hoặc 09 tháng của Ban Sơ thẩm như dẫn đến ở trên, cũng như thời hạn ra quyết định về vụ việc và ấn định một khoảng thời gian hợp lý để các bên thi hành phán quyết của DSB theo các quy định tương ứng, cũng được kéo dài bằng thời gian công việc được tạm ngừng. Nếu thời hạn tạm ngừng công việc của Ban Sơ thẩm vượt quá 12 tháng, thẩm quyền thành lập Ban Sơ thẩm sẽ chấm dứt hiệu lực.
Ngoài các nội dung nêu trên, DSU còn quy định tại Điều 13 về quyền tìm kiếm thông tin, Điều 14 về tính bảo mật trong quá trình làm việc và Điều 15 về khả năng đưa ra báo cáo sơ bộ giữa kỳ (Interim Report) trước khi Điều 16 đề cập đến báo cáo chính thức khi kết thúc công việc của Ban Sơ thẩm. Theo Điều luật này, DSB chỉ lưu xét báo cáo của Ban Sơ thẩm sau 20 ngày khi báo cáo đó được chuyển đến các thành viên và thành viên nào phản đối báo cáo phải có văn bản nêu rõ lý do phản đối ít nhất 10 ngày trước khi diễn ra phiên họp của DSB tại đó báo cáo của Ban Sơ thẩm sẽ được xem xét. Theo nguyên tắc, báo cáo của Ban Sơ thẩm phải được thông qua tại một phiên họp của DSB trong vòng 60 ngày sau ngày báo cáo đó được chuyển đến các thành viên, trừ trường hợp một bên tranh chấp chính thức thông báo cho DSB quyết định kháng cáo của mình hay trường hợp DSB đồng thuận để quyết định không thông qua báo cáo. Khi đó, DSB sẽ không xét thông qua báo cáo cho tới khi vụ việc hoàn thành thủ tục phúc thẩm.
1.6. Hội đồng Phúc thẩm và thủ tục phúc thẩm
Xung quanh thủ tục rà soát, xem xét lại hay tái giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO, Điều 17 DSU ghi nhận DSB đồng thời là cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng Phúc thẩm Thường trực (Standing Appellate Body) được cấu thành bởi 07 thành viên luân phiên hoạt động theo nguyên tắc một vụ việc được xem xét bởi 03 thành viên. Khác với thành viên Ban Sơ thẩm làm việc theo từng vụ việc, nhìn chung thành viên Hội đồng Phúc thẩm làm việc theo nhiệm kỳ 04 năm và mỗi người có thể được tái cử thêm một nhiệm kỳ. Về căn bản, thành viên Hội đồng Phúc thẩm phải là người có năng lực chuyên môn đã được xác tín vững vàng về luật, về thương mại quốc tế và về chính vấn đề cần giải quyết theo quy định của các hiệp định có liên quan. Họ cũng phải là người không có sự gắn kết với bất kỳ chính phủ nào bên cạnh quan hệ mang tính đại diện cho các quốc gia, vùng lãnh thổ ở WTO và không được tham gia giải quyết bất kỳ tranh chấp nào nếu có thể tạo ra một sự xung đột lợi ích trực tiếp hay gián tiếp.
Theo nguyên tắc, chỉ các bên tranh chấp, không phải bên thứ ba, có quyền chống án báo cáo của Ban Sơ thẩm, nhưng nếu một bên thứ ba, phù hợp với quy định của điều khoản có liên quan, đã thông báo cho DSB một quyền lợi đáng kể của mình thì có thể đệ trình bản thuyết trình tới, và phải được tạo cơ hội để được xem xét vấn đề bởi Hội đồng Phúc thẩm. Nhìn chung, thời hạn giải quyết phúc thẩm không vượt quá 60 ngày kể từ khi một bên chính thức thông báo yêu cầu phúc thẩm cho đến ngày Hội đồng Phúc thẩm ra báo cáo của mình. Trường hợp DSB nhận được văn bản thông báo có nêu rõ lý do tại sao Hội đồng Phúc thẩm không thể ra được báo cáo trong vòng 60 ngày, thời gian tối đa để ra báo cáo trong bất kỳ trường hợp nào cũng sẽ không vượt quá 90 ngày. Do nội dung giải quyết phúc thẩm được giới hạn chỉ đối với các vấn đề về luật và giải thích luật như đã được đưa ra trong báo cáo của Ban Sơ thẩm, Hội đồng Phúc thẩm có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc quyết định ngược lại với các ý kiến và kết luận của Ban Sơ thẩm. Về cơ bản, công việc của Hội đồng Phúc thẩm phải được giữ kín, việc soạn thảo báo cáo phải dựa trên cơ sở các thông tin và sự xác tín đã được đưa ra mà không bao gồm sự hiện diện hay tham gia của các bên tranh chấp với quan điểm của từng cá nhân thành viên Hội đồng Phúc thẩm phải không bao hàm sự ghi tên của người đã đưa ra quan điểm đó.
Khác với báo cáo của Ban Sơ thẩm được thông qua tại một phiên họp của DSB trong vòng 60 ngày sau ngày báo cáo được chuyển tới các thành viên trừ khi có bên tranh chấp thông báo về quyết định phúc thẩm, báo cáo của Hội đồng Phúc thẩm phải được DSB thông qua và được các bên tranh chấp chấp nhận vô điều kiện trong phạm vi 30 ngày sau khi báo cáo được chuyển đến các thành viên. Giống với báo cáo của Ban Sơ thẩm, báo cáo của Hội đồng Phúc thẩm cũng có thể không được thông qua khi có sự đồng thuận của DSB về vấn đề này.
1.7. Việc thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB
Theo Điều 19 DSU, khi báo cáo của Ban Sơ thẩm hay Hội đồng Phúc thẩm kết luận rằng một biện pháp nào đó của một bên tranh chấp là không phù hợp với một hiệp định có liên quan, báo cáo đó cần khuyến nghị, và có thể đưa ra gợi ý về cách thức thực hiện khuyến nghị, rằng thành viên đó cần có sự sửa đổi vấn đề cho thích hợp. Tại Điều 20 DSU ghi nhận một nguyên tắc chung áp dụng trong đa số trường hợp, rằng trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác, thời hạn để DSB ra quyết định về vụ tranh chấp giữa các bên - tính từ ngày Ban Sơ thẩm được thành lập cho đến ngày DSB xem xét thông qua báo cáo của Ban Sơ thẩm hay của Hội đồng Phúc thẩm là không quá 09 tháng trong trường hợp báo cáo của Ban Sơ thẩm không có thông báo yêu cầu phúc thẩm hoặc không quá 12 tháng trong trường hợp có thông báo yêu cầu phúc thẩm.
Tại Điều 21:1 DSU nói về việc thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB trước hết khẳng định nguyên tắc tuân thủ nhanh chóng đối với chúng được xem là cần thiết nhằm bảo đảm việc giải quyết hữu hiệu các tranh chấp vì lợi ích của tất cả thành viên. Sau đó, cụ thể hơn, Điều 21:3 DSU yêu cầu thành viên liên quan thông báo dự định thực hiện các khuyến nghị và phán quyết dành cho mình tại một cuộc họp của DSB được tổ chức trong vòng 30 ngày sau ngày thông qua báo cáo của Ban Sơ thẩm hay của Hội đồng Phúc thẩm. Trường hợp thực tế không thể thực hiện được ngay lập tức các khuyến nghị và phán quyết đó, thành viên liên quan cần phải đưa ra một khoảng thời gian hợp lý dành cho việc tuân thủ chúng. Khoảng thời gian hợp lý trong trường hợp này cần có sự chấp thuận của DSB hoặc được các bên tranh chấp đồng ý nếu không có sự chấp thuận của DSB hoặc được xác định thông qua biện pháp trọng tài trong vòng 90 ngày sau ngày thông qua các khuyến nghị hay phán quyết nếu không đạt được sự đồng ý của các bên. Trừ những tình huống đặc biệt có thể được xem xét để kéo dài hoặc rút ngắn hơn, khoảng thời gian hợp lý đưa ra bởi trọng tài trong trường hợp này phải không quá 15 tháng kể từ ngày thông qua báo cáo của Ban Sơ thẩm hoặc Hội đồng Phúc thẩm.
Tương ứng với quy định trên, Điều 21:4 DSU tiếp tục ghi nhận thời hạn tính từ ngày DSB thành lập Ban Sơ thẩm cho tới ngày quyết định khoảng thời gian hợp lý dành cho việc thi hành các khuyến nghị và phán quyết - trong trường hợp các bên tranh chấp không có thỏa thuận khác - là 15 tháng và không quá 18 tháng trong trường hợp Ban Sơ thẩm hoặc Hội đồng Phúc thẩm được phép gia hạn thời hạn đệ trình báo cáo của mình.
Tại Điều 21:6 DSU cũng xác quyết DSB đồng thời có quyền giám sát việc các bên trong một vụ tranh chấp thi hành các khuyến nghị và phán quyết liên quan. Trừ khi DSB quyết định khác, vấn đề thi hành các khuyến nghị và phán quyết liên quan sẽ được đưa vào chương trình nghị sự tại cuộc họp DSB sau 06 tháng kể từ ngày khoảng thời gian hợp lý dành cho việc tuân thủ các khuyến nghị và phán quyết của các bên được ấn định và sẽ được giữ trong chương trình nghị sự của DSB cho đến khi vấn đề đó được giải quyết. Ít nhất là 10 ngày trước khi diễn ra cuộc họp như vậy của DSB, thành viên liên quan sẽ phải cung cấp cho DSB bản báo cáo tình hình tiến triển của việc thi hành các khuyến nghị và phán quyết đó.
1.8. Việc áp dụng các chế tài
Toàn văn DSU có Điều 22 dài nhất được dành quy định về việc áp dụng chế tài mang tính đền bù (compensation) và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi (the suspension of consessions) của bên tranh chấp này đối với bên tranh chấp khác. Liên quan đến vấn đề này, Điều 22:1 DSU ghi nhận rằng việc đền bù và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hoặc nghĩa vụ khác chỉ là các biện pháp tạm thời khi các khuyến nghị và phán quyết liên quan không được thi hành trong một khoảng thời gian hợp lý và rằng không biện pháp nào trong số các biện pháp này được xem là lựa chọn tốt hơn so với việc thành viên liên quan thi hành đầy đủ một khuyến nghị theo cách sửa đổi một biện pháp nào đó sao cho phù hợp với quy định của hiệp định có liên quan. Bên cạnh đó, điều khoản này cũng nhấn mạnh việc đền bù là tự nguyện và phải phù hợp với quy định của các hiệp định có liên quan trong trường hợp được đưa ra.
Trên cơ sở đó, Điều 22:2 DSU thừa nhận nếu bên liên quan không có sự sửa đổi một biện pháp đã được kết luận là không phù hợp với một hiệp định có liên quan, nói cách khác là không tuân thủ các khuyến nghị và phán quyết đã được đưa ra trong khoảng thời gian hợp lý như đã được xác định thì bên đó - khi được yêu cầu và không chậm hơn ngày hết hạn của khoảng thời gian hợp lý đã được xác định đó - sẽ phải tham gia đàm phán với bất kỳ bên nào đang viện dẫn các thủ tục giải quyết tranh chấp nhằm đưa ra một mức bồi thường hai bên có thể chấp nhận được. Nếu không thỏa thuận được về mức bồi thường này trong phạm vi 20 ngày sau ngày kết thúc khoảng thời gian hợp lý vừa nêu thì bất kỳ bên nào đang viện dẫn các thủ tục giải quyết tranh chấp cũng có thể yêu cầu DSB cho phép tạm hoãn áp dụng các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hoặc nghĩa vụ khác theo hiệp định có liên quan đối với bên đó.
Tại Điều 22:3 DSU đưa một số nguyên tắc và thủ tục mà khi xem xét để tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi nào hay nghĩa vụ nào đối với bên kia thì bên xem xét áp dụng phải đảm bảo tuân thủ. Nguyên tắc tổng quát là bên này trước tiên nên tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hoặc nghĩa vụ khác ở cùng lĩnh vực mà Ban Sơ thẩm hoặc Hội đồng Phúc thẩm đã xác định có vi phạm hoặc triệt tiêu hoặc gây hại. Trường hợp cho rằng không thực tế hoặc không hiệu quả để tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác ở cùng lĩnh vực như vừa nêu, bên đó mới nên tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác ở lĩnh vực khác trong cùng hiệp định có liên quan. Cũng vậy, chỉ khi cho rằng tạm hoãn các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác ở lĩnh vực khác trong cùng hiệp định có liên quan được xem là không thực tế hoặc không hiệu quả và tình huống xảy ra là đủ nghiêm trọng, bên đó mới nên tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác trong hiệp định có liên quan khác.
Nội dung tiếp theo của Điều 22 DSU ghi nhận nhiều vấn đề khác liên quan đến nội dung thi hành các khuyến nghị hay phán quyết của DSB như DSB không thể cho phép tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác nếu hiệp định có liên quan cấm việc tạm hoãn thi hành như vậy (Khoản 5) hay việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ mang tính hưởng lợi hay nghĩa vụ khác chỉ mang tính tạm thời và chỉ được áp dụng cho tới khi biện pháp được xem là không phù hợp với hiệp định có liên quan đã được loại bỏ, hoặc thành viên phải thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết như thế đưa ra giải pháp đối với việc triệt tiêu hoặc làm phương hại đến các lợi ích, hoặc đạt được một giải pháp thỏa đáng cho cả hai bên (Khoản 8)…
2. Tranh chấp giữa các thành viên sau 20 năm hoạt động của WTO và kinh nghiệm của Việt Nam
2.1. Tóm lược các vụ tranh chấp giữa các thành viên sau 20 năm hoạt động của WTO
Sau đây là tóm lược nội dung 500 vụ tranh chấp xung quanh hoạt động của WTO tính từ ngày 01/01/1995 (ngày WTO chính thức đi vào hoạt động) đến ngày 10/11/2015 (ngày WTO nhận văn bản khiếu nại thứ 500 của bên nguyên Pakistan trước bên bị Nam Phi như đã đề cập đến ở trên). Có ba vấn đề chính được trình bày ở đây gồm số lượng thành viên WTO tham chấp, các giai đoạn diễn tiến của quá trình tham chấp và tỷ lệ thi hành các khuyến nghị, phán quyết từ thành viên tham chấp; sự tham chấp giữa thành viên là nước phát triển và thành viên là nước đang phát triển; tính đa dạng trong yêu cầu tham chấp của bên nguyên và các hiệp định có liên quan được nhắc đến trong quá trình tham chấp.
* Số lượng thành viên tham chấp, các giai đoạn diễn tiến của quá trình tham chấp và tỷ lệ thi hành các khuyến nghị, phán quyết từ thành viên tham chấp
Tính đến ngày 10/11/2015 là ngày WTO nhận văn bản khiếu nại thứ 500 của bên nguyên Pakistan trước bên bị Nam Phi, trong số hơn 160 thành viên WTO có 102 thành viên (63%) từng tham gia tranh chấp với tư cách bên nguyên, bên bị hoặc một bên thứ ba trong đó tỷ lệ thi hành các khuyến nghị, phán quyết của DSB từ các thành viên tham chấp lên tới 90%. Trong số này, có hơn một nửa tổng số vụ (282/500) được giải quyết thông qua con đường tranh tụng sơ thẩm, phúc thẩm và 110 vụ khác được giải quyết thông qua thương lượng giữa các bên hoặc được rút khiếu nại bởi bên nguyên, các vụ còn lại chưa có thông báo cụ thể về kết quả giải quyết.
Là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, Hoa Kỳ đồng thời là thành viên WTO có số vụ tham chấp nhiều nhất trong cộng đồng WTO với 108 vụ quốc gia này tham gia với tư cách bên nguyên, 124 vụ tham gia với tư cách bên bị và 130 vụ tham gia với tư cách một bên thứ ba trong tổng số 500 vụ tham chấp[3]. Theo sát Hoa Kỳ là Cộng đồng Châu Âu (European Communities) với 95 vụ có tư cách bên nguyên, 82 vụ có tư cách bên bị và 155 vụ tham gia với tư cách một bên thứ ba. Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới cũng tham chấp với con số 13 vụ có tư cách bên nguyên, 33 vụ có tư cách bên bị và 129 vụ có tư cách của một bên thứ ba. Đứng sau Hoa Kỳ và Cộng đồng Châu Âu nhưng tương đương với Trung Quốc về số lượng các vụ tham chấp (theo thứ tự tư cách bên nguyên - bên bị - bên thứ ba trong các con số được nêu sau đây) là một số quốc gia khác như Canada: 34-18-110, Brazil: 27-16-99, Mexico: 23-14-75, Ấn Độ: 21-23-116, Nhật Bản: 21-15-159, Argentina: 20-22-59 và Hàn Quốc: 17-15-101.
* Sự tham chấp giữa các thành viên thuộc các nhóm nước khác nhau
Các thành viên WTO trước hết được chia thành nhóm thành viên là nước phát triển và nhóm thành viên là nước đang phát triển. Trong tổng số 500 vụ tranh chấp đã nêu, có sự hiện diện của các thành viên thuộc hai nhóm nước này. Nổi bật trong số các thành viên tham gia tranh chấp là nước phát triển là Hoa Kỳ, Cộng đồng Châu Âu và các nước thành viên, Canada và Nhật Bản trong khi có thể nhắc đến Brazil, Ấn Độ và Mexico như những đại diện tiêu biểu của thành viên là nước đang phát triển tham gia tranh chấp.
Bên cạnh sự phân biệt nhóm các quốc gia hay nền kinh tế mang tính rộng rãi và phổ biến nêu trên, trong môi trường hoạt động của WTO, một thành viên còn có thể thuộc về một hoặc nhiều trong khoảng gần 30 nhóm các quốc gia khác như Nhóm các nước thuộc khối ACP (African, Caribbean and Pacific Countries); Nhóm các nước thuộc Liên hiệp Châu Âu EU (European Union); Nhóm các nước kém phát triển nhất LDCs (Least Developed Countries); Nhóm các nước thuộc khối Cairns (Cairns Group) hay Nhóm các nước G-20 (là nhóm các nước đang phát triển có mục tiêu yêu cầu các nước phát triển tiến hành cải cách mạnh mẽ hơn thể chế nông nghiệp từ đó tạo ra chế độ linh hoạt hơn cho các nước đang phát triển trong việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp để phân biệt với Nhóm G-20 các nền kinh tế lớn trên thế giới).[4]
* Sự đa dạng trong yêu cầu tham chấp của bên nguyên và của các hiệp định có liên quan được áp dụng để giải quyết tranh chấp
Sự trải rộng và đa dạng của các vấn đề thương mại toàn cầu được bao phủ bởi gần 30 hiệp định có liên quan xung quanh hoạt động của WTO. Điều này dẫn đến một thực tế là yêu cầu giải quyết tranh chấp của bên nguyên trong các vụ tham chấp ở WTO cũng mang tính trải rộng và đa dạng. Tuy vậy, các yêu cầu tham chấp của bên nguyên trong tổng số 500 vụ tranh chấp đã nêu đa số tập trung vào các luật và quy lệ của WTO ở hai lĩnh vực là trợ cấp (subsidies) và chống phá giá (anti-dumping). Theo sau hai vấn đề này là các vấn đề khác bao gồm sự vận dụng của chế độ đánh thuế nhập khẩu (tariff regimes); sự đòi hỏi phải đáp ứng các biện pháp bảo đảm an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu đối với hàng hóa từ nước xuất khẩu (food safety measures); việc thực hiện đúng các cam kết về lộ trình mở cửa dịch vụ (commitments in services schedules); các quy tắc buộc phải đảm bảo về dán nhãn thông liệu và đóng gói hàng hóa xuất khẩu (labelling and packaging rules); việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động vật (animal welfare measures) và các yêu cầu buộc phải tuân theo liên quan đến môi trường (environmental schemes).
Dựa vào yêu cầu tham vấn đưa ra ngay từ khi bắt đầu một vụ tham chấp, chỉ có một trong tổng số các vụ tranh chấp ở WTO đã trích dẫn GATT 1947 là tiền thân của GATT 1994. Đây là vụ việc giữa bên nguyên Guatemala và bên bị Mexico, cơ bản liên quan đến việc bên bị đã áp dụng một số biện pháp bắt buộc trong định giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu từ bên nguyên (DS298, 22/07/2003). Các tham chấp khác giữa các thành viên WTO chủ yếu liên quan đến GATT 1994 với con số tính đến thời điểm bài viết này được hoàn thành (06/2016) đã lên tới 412 vụ yêu cầu tham vấn của bên nguyên đối với bên bị xuất phát từ quy định tương ứng tại các hiệp định tiểu tiết thuộc Hiệp định này. Thuộc nhóm các vụ việc này, gần đây nhất có thể kể đến các vụ Brazil yêu cầu Indonesia tham vấn về các biện pháp liên quan đến nhập khẩu thịt bò (DS506, 04/04/2016); Canada yêu cầu Hoa Kỳ tham vấn về các biện pháp đối kháng đối với giấy siêu mỏng (supercalendered paper) nhập khẩu từ Canada (DS505, 30/03/2016); Nhật Bản yêu cầu Hàn Quốc tham vấn về các biện pháp chống phá giá đối với van hơi (pneumatic valves) nhập khẩu từ Nhật Bản (DS504, 15/03/2016); Liên hiệp Châu Âu yêu cầu Columbia tham vấn về các biện pháp áp dụng đối với rượu mạnh nhập khẩu từ Liên hiệp Châu Âu (DS502, 13/01/2016); Hoa Kỳ yêu cầu Trung Quốc tham vấn về các biện pháp thuế liên quan đến máy bay dân dụng sản xuất trong nước (DS501, 08/12/2015)…
Ngoài các trường hợp nêu trên, các hiệp định có liên quan được trích dẫn ngay từ khi khởi đầu, hay được thể hiện trong yêu cầu tham vấn của bên nguyên đối với bên bị trong quá trình giải quyết tranh chấp ở WTO còn bao gồm các hiệp định cụ thể khác như Hiệp định về nông nghiệp (79 vụ); Hiệp định thành lập WTO (57 vụ); Hiệp định về rào cản kỹ thuật đối với thương mại hay TBT (52 vụ); Hiệp định về cấp phép nhập khẩu (45 vụ); Hiệp định về việc áp dụng biện pháp kiểm dịch thực động vật (44 vụ); Hiệp định về biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hay TRIMs (41 vụ); Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ hay TRIPs (34 vụ); Hiệp định chung về thương mại dịch vụ hay GATS (24 vụ); Hiệp định về hàng dệt và may mặc (16 vụ); Hiệp định về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp hay DSU (15 vụ); Hiệp định về mua sắm Chính phủ (04 vụ)…
2.2. Kinh nghiệm của Việt Nam trong hoạt động giải quyết tranh chấp ở WTO
Kể từ khi chính thức trở thành thành viên đầy đủ của WTO (ngày 11/01/2007) cho đến nay, bên cạnh 22 vụ tham gia với tư cách một bên thứ ba, Việt Nam tham chấp 03 vụ đều với tư cách bên nguyên, không có vụ nào với tư cách bên bị. Như vậy, ít nhất có thể nói rằng Việt Nam đã rất tôn trọng, hay đã chưa để một thành viên nào phải phàn nàn, khiếu kiện về việc chúng ta đã thi hành không tốt, không đầy đủ các quy chế, thể lệ hay các luật của WTO. Phần này của bài viết chỉ đi sâu hơn vào ba vụ tham chấp với tư cách bên nguyên của Việt Nam.
Trong ba vụ tranh chấp này, hai vụ đã được giải quyết đều liên quan đến việc Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp chống phá giá (anti-dumping) đối với một số loại tôm nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ Việt Nam, vụ thứ ba gần đây nhất đang trong quá trình giải quyết gắn với việc Indonesia áp dụng thuế nhập khẩu thép từ Việt Nam vào Indonesia.
Trong vụ việc thứ nhất (DS404), Việt Nam khởi đơn yêu cầu Hoa Kỳ tổ chức tham vấn vào ngày 01/02/2010. Sau đó, vụ việc này được nhiều thành viên khác tham gia với tư cách bên thứ ba, đó là Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico và Thái Lan. Các hiệp định với các điều khoản có liên quan được Việt Nam trích dẫn trong yêu cầu tham vấn gồm Hiệp định về chống phá giá; Hiệp định chung về thuế quan và thương mại hay GATT 1994; Hiệp định thành lập WTO và Nghị định thư về việc gia nhập WTO của Việt Nam. Tiến trình giải quyết vụ việc dừng lại ở giai đoạn Báo cáo của Ban Sơ thẩm được chuyển đến các bên tham chấp ngày 19/05/2011, được chuyển đến tất cả thành viên DSB ngày 11/07/2011 và được DSB thông qua ngày 02/09/2011. Tại cuộc họp của DSB ngày 27/09/2011, Hoa Kỳ khẳng định sẽ thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB trong vụ việc với Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các nghĩa vụ của Hoa Kỳ ở WTO nhưng cần một thời hạn hợp lý cho việc thi hành đó. Kết quả là vào ngày 31/10/2011, Việt Nam và Hoa Kỳ đã cùng thông báo đến DSB rằng, hai bên đã đạt được thỏa thuận về thời hạn hợp lý để Hoa Kỳ thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB trong vụ việc là 10 tháng. Như vậy, thời hạn này trong thực tế đã kết thúc từ ngày 02/07/2012.
Trong vụ việc thứ hai (DS429), Việt Nam khởi đơn yêu cầu Hoa Kỳ tổ chức tham vấn vào ngày 20/02/2012. Các thành viên khác tham gia với tư cách bên thứ ba trong vụ việc này gồm Trung Quốc, Ecuador, Liên hiệp Châu Âu, Nhật Bản, Na Uy và Thái Lan. Bốn hiệp định có liên quan với các quy định cụ thể được Việt Nam trích dẫn trong yêu cầu Hoa Kỳ tham vấn là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại hay GATT 1994; Hiệp định về chống phá giá; Hiệp định thành lập WTO và Hiệp định về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU). Trên cơ sở Báo cáo của Ban Sơ thẩm được chuyển đến các thành viên ngày 17/11/2014, Việt Nam đã thông báo quyết định phúc thẩm của mình vào ngày 06/01/2015. Báo cáo của Hội đồng Phúc thẩm được chuyển đến các thành viên ngày 07/04/2015 và được DSB thông qua ngày 22/04/2015 đồng thời với việc thông qua Báo cáo của Ban Sơ thẩm bởi trong Báo cáo của mình Hội đồng Phúc thẩm đã xác tín Báo cáo của Ban Sơ thẩm về vụ việc.
Tại cuộc họp của DSB ngày 20/05/2015, Hoa Kỳ thông báo cho DSB ý định thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB trong vụ việc với Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các nghĩa vụ của Hoa Kỳ ở WTO nhưng cần một thời hạn hợp lý cho việc thi hành đó. Đáp lại, Việt Nam yêu cầu thời hạn hợp lý để Hoa Kỳ thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB về vụ việc nên được xác định bởi trọng tài phù hợp với quy định tại Điều 21.3(c) DSU. Đây là cơ sở để Báo cáo Trọng tài về nội dung yêu cầu được chuyển đến tất cả thành viên ngày 15/12/2015. Báo cáo này xác định 15 tháng kể từ khi Báo cáo Sơ thẩm và Phúc thẩm về vụ việc được DSB thông qua, như vậy, thời hạn hợp lý để Hoa Kỳ thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB về vụ việc sẽ kết thúc ngày 22/07/2016. Tuy nhiên, Việt Nam và Hoa Kỳ đã cùng thông báo cho DSB rằng, hai bên đã đạt được một thỏa thuận cùng có lợi theo đó đồng ý sửa đổi ngày kết thúc thời hạn đã nêu đối với Hoa Kỳ sẽ là ngày 22/08/2016.
Trong vụ việc thứ ba (DS496), Việt Nam khởi đơn yêu cầu Indonesia tổ chức tham vấn vào ngày 01/06/2015. Các thành viên khác tham gia với tư cách bên thứ ba trong vụ việc này gồm có Hoa Kỳ, Liên hiệp Châu Âu, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc, Chile, Úc, Nhật Bản và Đài Loan. Các hiệp định có liên quan với các điều khoản cụ thể được Việt Nam trích dẫn trong yêu cầu tổ chức tham vấn về vụ việc này là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại hay GATT 1994 và Hiệp định về các biện pháp tự vệ. Về mặt thời gian, vụ việc này đang trong giai đoạn khởi đầu với Ban Sơ thẩm được thành lập ngày 09/12/2015 theo quyết định của Tổng Giám đốc WTO dựa trên cơ sở đồng yêu cầu (gửi ngày 01/12/2015) của Việt Nam (với tư cách bên nguyên) và Đài Loan (với tư cách một bên thứ ba). Có lẽ, cần phải một thời gian đáng kể nữa theo quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO tại DSU như đã được trình bày ở các phần tương ứng bên trên để vụ việc được giải quyết theo nghĩa vụ và quyền lợi của Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức và đầy đủ của WTO kể từ ngày 11/01/2007.
TS. Kiều Thị Thanh
Giảng viên chính Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội
Giảng viên chính Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội
[1] Xem: WTO 2015 News Items 10 November 2015 - Dispute Settlement, WTO Disputes Reach 500 Mark. Trừ khi một nguồn khác được dẫn đến, các số liệu, tài liệu trong bài viết này liên quan đến WTO đều lấy từ website của Tổ chức này
[2] Thuộc nhóm các Hiệp định này là 13 hiệp định gồm Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 (gọi tắt là GATT 1994 bao gồm tiền thân là GATT 1947 với 07 hiệp định thuộc GATT 1994: Thỏa thuận về thuế và phí khác; Thỏa thuận về doanh nghiệp nhà nước; Thỏa thuận về cân bằng thanh toán; Thỏa thuận về các hiệp định thương mại khu vực; Thỏa thuận về các yếu tố tác động đến nghĩa vụ; Thỏa thuận về không thụ hưởng nhượng bộ; Thỏa thuận về Nghị định thư Marrakesh theo GATT 1994); Hiệp định về nông nghiệp; Hiệp định về việc áp dụng biện pháp kiểm dịch thực động vật; Hiệp định về hàng dệt và may mặc; Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại; Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại; Hiệp định về chống phá giá; Hiệp định về định giá hải quan; Hiệp định về giám định tiền xếp vận; Hiệp định về quy tắc xuất xứ; Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu; Hiệp định về trợ cấp và biện pháp đối kháng; Hiệp định về biện pháp tự vệ.
[3] Xin được lưu ý là do số liệu và thông tin xung quanh WTO được liên tục cập nhật, các thống kê ở đây chỉ tính đến ngày 10-11-2015 là ngày WTO thông báo con số tròn 500 vụ tranh chấp sau 20 năm hoạt động.
[4] Xem thêm: WTO, Groups in the WTO, updated 1 April 2016