Hệ thống Thi hành án dân sự (THADS) là hệ thống quản lý tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương với 78 năm hình thành và phát triển. Hiện nay, hệ thống THADS có 08 đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, 63 Cục Thi hành án dân sự ở cấp tỉnh, 702 Chi cục Thi hành án dân sự ở cấp huyện và gần 10.000 công chức, viên chức, người lao động trong toàn hệ thống. Cùng với đó, các cơ quan thi hành án trong quân đội cũng đã được kiện toàn với Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng và Phòng Thi hành án quân khu và tương đương. Tính đến nay, hệ thống THADS trên toàn quốc đã thực hiện thi hành được gần 1.000.000 việc với trên 400 nghìn tỷ đồng/năm. Kết quả thực hiện nhiệm vụ thi hành án ngày càng cao, có xu hướng bền vững và cơ bản đạt, vượt các chỉ tiêu Quốc hội giao. THADS đã và đang góp phần tích cực, quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kết quả THADS về việc, về tiền góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và mở rộng tín dụng, bảo vệ quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng, nâng cao chất lượng an sinh xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
Chính phủ đang đẩy mạnh triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số của quốc gia với nhiều mục tiêu và yêu cầu đã được đặt ra nhằm phát triển Chính phủ số có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số; có mô hình hoạt động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, để có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội.
Phát triển Chính phủ số một cách tổng thể, toàn diện, phát huy kết quả đạt được, tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, có giải pháp, cách làm đột phá, mang tính khác biệt, để cơ bản hình thành Chính phủ số vào năm 2025. Quyết định 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 đặt ra chỉ tiêu “100% thủ tục hành chính đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến mức độ 4”. Bên cạnh đó, thực hiện “100% kết quả giải quyết thủ tục hành chính được số hóa” là một chỉ tiêu triển khai quan trọng trong năm 2023 được nêu tại Quyết định số 17/QĐ-UBQGCĐS ngày 04/4/2023 của Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số.
Công nghệ số đã và đang phát triển một cách nhanh chóng, ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống xã hội, trong đó đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động THADS, từ đó tạo ra sự chuyển đổi từ thủ tục thi hành án truyền thống sang thủ tục thi hành án dựa trên công nghệ số. Sự chuyển đổi này đã góp phần tạo điều kiện tốt hơn cho các bên có liên quan trong THADS khi thực hiện các thủ tục THADS; đảm bảo công bằng, minh bạch, trách nhiệm; thông tin kịp thời và chủ động trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, từ đó tiết kiệm nguồn lực cho xã hội. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) xác định, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án; hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả THADS, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án hình sự, dân sự và hành chính; thực hiện xã hội hóa một số hoạt động THADS với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp.
Theo yêu cầu về xây dựng Chính phủ điện tử, Bộ Tư pháp, hệ thống THADS cần tập trung hơn trong việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong tổ chức thi hành án, coi đây là giải pháp đột phá trong công tác THADS, qua đó góp phần rút ngắn thời gian thi hành án, nêu cao tinh thần phục vụ người dân, doanh nghiệp.
1. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực thi hành án dân sự
1.1. Công tác chỉ đạo
Tổng cục Thi hành án dân sự đã ban hành nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện ứng dụng CNTT, chuyển đổi số nhằm cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng như đem lại hiệu quả cao trong công tác của cơ quan, đơn vị. Hàng năm, Tổng cục Thi hành án dân sự đã xây dựng kế hoạch ứng dụng CNTT, chuyển đổi số trong hệ thống THADS và ban hành các văn bản chỉ đạo các đơn vị triển khai thực hiện. Các kế hoạch, đề án về ứng dụng CNTT trong Hệ thống THADS xác định rõ mục đích, yêu cầu, các nhiệm vụ cụ thể, có lộ trình, giải pháp cho cả giai đoạn và đối với từng năm cụ thể. Đồng thời, Lãnh đạo Tổng cục chỉ đạo xây dựng kế hoạch triển khai từ Tổng cục đến các Cục, Chi cục Thi hành án dân sự. Hàng năm, ứng dụng CNTT và chuyển đổi số được đưa vào làm chỉ tiêu, nhiệm vụ giao hàng năm cho các cơ quan THADS và đưa vào tiêu chí chấm điểm đánh giá hàng năm đối với các cơ quan THADS địa phương.
1.2. Hạ tầng công nghệ thông tin
Hạ tầng kỹ thuật về CNTT trong hệ thống THADS ngày càng được quan tâm đầu tư xây dựng. 100% công chức hệ thống THADS được trang bị máy tính cá nhân có kết nối sử dụng internet phục vụ hoạt động.
Hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến được triển khai thông suốt. Phần lớn các văn bản được trình, ký qua Hệ thống quản lý văn bản và điều hành tạo thuận lợi cho công chức, viên chức trong quá trình triển khai nhiệm vụ.
Ở Trung ương, 100% cán bộ, công chức, viên chức của Tổng cục Thi hành án dân sự được trang bị mỗi người 01 máy tính kết nối mạng nội bộ (LAN) và mạng internet, các phòng làm việc được trang bị một số thiết bị khác phục vụ công tác như máy in, máy fax, máy scan, máy photocopy, điện thoại…
Tại các cơ quan THADS địa phương: Cán bộ, công chức đều được trang bị tương đối đầy đủ các trang thiết bị tin học phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ, đạt yêu cầu 01 máy tính/01 người; 100% Cục Thi hành án dân sự và Chi cục Thi hành án dân sự đã thiết lập hệ thống mạng nội bộ.
Trong những năm qua, Tổng cục Thi hành án dân sự đã triển khai nhiều phần mềm nghiệp vụ bao gồm:
(i) Phần mềm quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê THADS: Ngày 02/6/2017, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 791/QĐ-BTP về việc triển khai Phần mềm này trong toàn Hệ thống THADS;
(ii) Phần mềm quản lý văn bản đi/đến: Ngày 12/11/2014, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 3037/QĐ-BTP về việc ban hành Kế hoạch triển khai, đưa vào sử dụng phần mềm quản lý công văn đi/đến cho Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
(iii) Phần mềm quản lý công chức THADS: Ngày 20/9/2021, Tổng cục Thi hành án dân sự đã ban hành Công văn số 3028/TCTHADS-TCCB về việc triển khai phần mềm quản lý công chức THADS;
(iv) Phần mềm cơ sở dữ liệu điện tử về thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án: Ngày 22/3/2021 Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã ký Quyết định số 247/QĐ-TCTHADS về việc triển khai phần mềm cơ sở dữ liệu điện tử về thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án;
(v) Phần mềm hỗ trợ trực tuyến THADS: Ngày 01/10/2020, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã ký Quyết định số 816/QĐ-TCTHADS về việc triển khai phần mềm hỗ trợ trực tuyến THADS;
(vi) Phần mềm kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự và kế toán hành chính sự nghiệp THADS;
(vii) Phần mềm lưu trữ dùng chung cho hệ thống tổ chức các cơ quan THADS (đang sử dụng tại Tổng cục Thi hành án dân sự, các Cục THADS).
Ngoài ra, hầu hết công chức, viên chức thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, các cơ quan THADS địa phương đều được cấp hộp thư điện tử công vụ phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ (khoảng 10.000 tài khoản), dung lượng cao nhất lên đến 5GB; đầu tư mua sắm, lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống giao ban trực tuyến với 64 điểm cầu (tại Tổng cục và 63 Cục Thi hành án dân sự) phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành nhanh chóng, tiết kiệm. Triển khai cấp chữ ký số cho Lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự, Lãnh đạo các đơn vị thuộc Tổng cục, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự.
1.3. Bảo đảm an toàn, an ninh thông tin
Công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng thường xuyên được quan tâm, quán triệt và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc theo các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Tư pháp về bảo vệ an ninh mạng như: Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược an ninh mạng quốc gia; Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 18/10/2019 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược an ninh mạng quốc gia; Luật An ninh mạng năm 2018; Nghị định số 04/2019/NĐ-CP ngày 27/12/2019 của Chính phủ quy định chi tiết, trình tự, thủ tục áp dụng một số biện pháp bảo vệ an ninh mạng; các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về công tác phòng, chống gián điệp mạng, bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngày 16/01/2023, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký Quyết định số 45/QĐ-BTP ban hành Quy chế bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng Bộ Tư pháp. Đến nay, 100% máy tính của công chức tại Tổng cục Thi hành án dân sự đều được Cục Công nghệ thông tin hỗ trợ cài đặt phần mềm diệt virus.
1.4. Cung cấp thông tin, dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp
Cổng/Trang thông tin điện tử THADS thường xuyên cập nhật, đăng tải các thông tin liên quan đến công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành hoạt động THADS; cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến; hỗ trợ trực tuyến THADS đối với gửi đơn yêu cầu THADS; yêu cầu xác nhận kết quả THADS; tiếp nhận phản ánh, kiến nghị về THADS; đăng tải công khai danh sách người phải thi hành án chưa có điều kiện, quyết định giải quyết khiếu nại lần hai và thông tin về các thông báo lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá và thông tin bán đấu giá tài sản THADS…
Đối với việc triển khai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án trên Cổng dịch vụ công quốc gia theo nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 422/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 phê duyệt Danh mục dịch vụ công trực tuyến tích hợp, cung cấp trên Cổng dịch vụ công quốc gia năm 2022. Hoạt động này đang được triển khai thực hiện tại 35 Chi cục Thi hành án dân sự, Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc 07 tỉnh. Kết quả thu, nộp tiền tạm ứng án phí trên Cổng dịch vụ công quốc gia, tính đến ngày 24/4/2024 như sau: Tổng số thông báo nộp tạm ứng án phí thực hiện là 5.901 thông báo; tổng số tiền tạm ứng án phí đã thu, nộp là 38.932.979.281 VNĐ.
Việc triển khai thực hiện thu nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án trên Cổng dịch vụ công mang lại hiệu quả cho công dân. Theo đó, người khởi kiện không cần đến trụ sở cơ quan THADS, Tòa án nhân dân để làm trực tiếp nên tiết kiệm được thời gian, chi phí cho người khởi kiện; cơ quan nhà nước (cơ quan THADS, Tòa án nhân dân) tiết kiệm được chi phí phát hành, gửi biên lai giấy; hạn chế được việc tiếp xúc trực tiếp không cần thiết giữa người khởi kiện với cơ quan nhà nước.
1.5. Nguồn nhân lực
Tổng cục Thi hành án dân sự, các Cục Thi hành án dân sự bố trí cán bộ chuyên trách về CNTT tại cơ quan, thực hiện chính sách đảm bảo cho cán bộ phụ trách lĩnh vực CNTT. Hiện tại, ở Tổng cục Thi hành án dân sự có Vụ Quản lý thi hành án hành chính, thống kê và dữ liệu thi hành án (gọi tắt là Vụ Nghiệp vụ 3) là đơn vị trực thuộc tham mưu trong công tác nghiên cứu và triển khai các ứng dụng CNTT của toàn hệ thống THADS. Ở các cơ quan THADS hiện nay được phân bổ 01 biên chế chuyên trách CNTT/Cục Thi hành án dân sự (hầu hết các Cục Thi hành án dân sự đã tuyển đủ số biên chế này, một số đơn vị giao kiêm nhiệm phụ trách), các Chi cục Thi hành án dân sự chưa có cán bộ chuyên trách về CNTT. Tuy nhiên, hiện nay trình độ của công chức được giao nhiệm vụ đầu mối ứng dụng CNTT và chuyển đổi số chưa đảm bảo chất lượng, một số không được đào tạo về chuyên ngành CNTT. Hàng năm, Tổng cục Thi hành án dân sự phối hợp với các đơn vị liên quan (Vụ Tổ chức cán bộ, Cục Công nghệ thông tin, Học viện Tư pháp) xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, trong đó có đào tạo, bồi dưỡng kiến thức CNTT cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống THADS.
2. Thuận lợi, khó khăn
Về cơ bản, hạ tầng CNTT được đầu tư đã đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo, điều hành và thực hiện nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự. Việc xây dựng, triển khai các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, phần mềm ứng dụng trong hoạt động của Bộ, Ngành được tăng cường, từng bước đồng bộ và mang lại hiệu quả rõ rệt. Việc ứng dụng CNTT đã góp phần tích cực thay đổi lề lối, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, lãnh đạo các cấp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành; phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng dịch vụ công của Bộ, Ngành Tư pháp.
Công tác đào tạo nâng cao kiến thức về CNTT được quan tâm thường xuyên. Công chức, viên chức của hệ thống THADS được tạo điều kiện tham gia các khóa bồi dưỡng kiến thức về CNTT, bảo đảm an toàn an ninh thông tin, an toàn dữ liệu; công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng thường xuyên được quan tâm, quán triệt và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc theo các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Tư pháp về bảo vệ an ninh mạng.
Đặc biệt, công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong hoạt động ứng dụng CNTT đang ngày càng chặt chẽ hơn. Trong thời gian vừa qua, Tổng cục Thi hành án dân sự đã làm việc với các đơn vị chuyên môn của Tòa án nhân dân tối cao, Văn phòng Chính phủ, Kho bạc nhà nước trong việc xây dựng, triển khai, đánh giá hoạt động của việc thu nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án trên Cổng dịch vụ công quốc gia. Đồng thời, các cơ quan cũng tham gia trao đổi, thảo luận phương án giải quyết khó khăn, vướng mắc khi triển khai thủ tục này.
Bên cạnh đó, hoạt động ứng dụng CNTT trong lĩnh vực THADS còn gặp một số khó khăn, hạn chế như: (i) Việc đầu tư trang thiết bị, hạ tầng CNTT chưa đồng bộ, số lượng người cùng truy cập vào phần mềm nghiệp vụ tại một số thời điểm lớn ảnh hưởng tới việc khai thác các phần mềm nghiệp vụ. Tốc độ xử lý của đường truyền đôi lúc còn chậm dẫn đến tình trạng quá tải khi truy cập vào một số hệ thống phần mềm nghiệp vụ. Trong quá trình khai thác phần mềm nghiệp vụ, đôi khi vẫn còn tình trạng chậm, treo, nhất là trong thời điểm tổng hợp, lấy báo cáo số liệu. (ii) Công tác xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu điện tử vẫn còn tình trạng cắt khúc, chưa tạo lập được cơ sở dữ liệu tập trung, nhất là tích hợp cơ sở dữ liệu của từng địa phương thành cơ sở dữ liệu chung thống nhất của cả hệ thống THADS. Việc xây dựng, triển khai một số phần mềm, ứng dụng CNTT mặc dù đã được thực hiện nhưng còn chậm so với yêu cầu. (iii) Kinh phí dành cho các hoạt động ứng dụng CNTT, chuyển đổi số, đảm bảo an toàn thông tin mạng còn hạn hẹp. So với yêu cầu công tác hiện nay thì việc đầu tư cho hoạt động ứng dụng CNTT chưa thực sự đáp ứng nhu cầu. Trong thời gian tới, lĩnh vực THADS cần quan tâm đẩy mạnh thực hiện, tăng cường các nguồn lực, tích cực phối hợp với các đơn vị có thế mạnh về CNTT hỗ trợ, hợp tác phát triển. (iv) Đội ngũ công chức phụ trách nhiệm vụ ứng dụng CNTT, chuyển đổi số tại một số cơ quan, đơn vị kiêm nhiệm dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao. Kỹ năng sử dụng máy tính, khả năng ứng dụng CNTT của một số cán bộ, công chức THADS còn hạn chế, nhất là tại các Chi cục Thi hành án dân sự. Lĩnh vực THADS chưa có nhiều chính sách khuyến khích, đãi ngộ nên chưa thu hút được nguồn nhân lực CNTT có trình độ chuyên môn cao vào công tác tại hệ thống THADS. (v) Dịch vụ công trực tuyến thu, nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí trên Cổng dịch vụ công quốc gia vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc có thể làm phát sinh thêm công việc, chi phí cho cơ quan nhà nước, chưa thực sự tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp... kéo dài thời gian giải quyết vụ việc.
3. Đánh giá chung và nhiệm vụ, giải pháp
3.1. Đánh giá chung
Việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của hệ thống THADS đã thu được nhiều kết quả tích cực, đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin, cung cấp số liệu, dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức và người dân. Nhiều phần mềm chuyên môn, nghiệp vụ được triển khai có hiệu quả; tăng cường kết nối, trao đổi thông tin, dữ liệu theo hướng đồng bộ, liên thông, hiện đại, thực hiện nhiệm vụ của Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06). Việc xây dựng các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, phần mềm ứng dụng trong hoạt động của Bộ, Ngành được tăng cường, từng bước đồng bộ và mang lại hiệu quả rõ rệt. Nguồn nhân lực về CNTT được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng. Việc ứng dụng CNTT giúp giảm được thời gian, công sức, chi phí và tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, hiện đại hóa hệ thống THADS. Đồng thời, việc ứng dụng CNTT đã góp phần tích cực thay đổi lề lối, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, lãnh đạo các cấp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành; phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng dịch vụ công của Bộ, Ngành Tư pháp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai thực hiện vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, cụ thể: Hạ tầng CNTT còn thiếu đồng bộ; hiệu quả khai thác và sử dụng các ứng dụng CNTT để phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ của công chức, viên chức còn thấp; nguồn nhân lực về CNTT trong Bộ Tư pháp, trong đó có hệ thống THADS còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng.
Có thể thấy rằng, việc ứng dụng CNTT trong công tác THADS thời gian qua đã có những chuyển biến nhất định, đạt được một số kết quả trên nhiều mặt (hạ tầng, phần mềm, cơ sở dữ liệu, nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng…). Tuy nhiên, so với yêu cầu của công tác THADS hiện nay và thời gian tới thì việc ứng dụng CNTT chưa đáp ứng yêu cầu, cần phải quan tâm đẩy mạnh, tăng cường các nguồn lực, tích cực phối hợp với các đơn vị có thế mạnh về CNTT để hỗ trợ, hợp tác phát triển.
3.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường pháp lý thúc đẩy hoạt động ứng dụng CNTT trong lĩnh vực THADS.
Thứ hai, phát triển hạ tầng CNTT, các ứng dụng và phần mềm nghiệp vụ hỗ trợ cho công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức, hoạt động THADS, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THADS và cung cấp nhiều tiện ích cho người dân, doanh nghiệp; kết nối cơ sở dữ liệu THADS, phần mềm chuyên ngành với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, các cơ sở dữ liệu quốc gia và phần mềm chuyên ngành liên quan khác.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quản trị, vận hành, khai thác hiệu quả các hệ thống thông tin đã được đầu tư, nâng cao kỹ năng ứng dụng CNTT cho công chức trong hệ thống THADS; ứng dụng công nghệ mới như công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, bigdata...
Thứ tư, xây dựng, triển khai các tiện ích, dịch vụ công trực tuyến phục vụ hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp.
Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức và kỹ năng cho cán bộ, công chức về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về CNTT, truyền thông về các ứng dụng CNTT trong cải cách hành chính. Cùng với đó, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình tổng thể cải cách hành chính gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng chính quyền điện tử, công sở số; đẩy mạnh ứng dụng CNTT, số hóa quy trình, hồ sơ; cung cấp đầy đủ thông tin lên Cổng thông tin điện tử THADS và các Trang thông tin điện tử THADS của địa phương.
3.3. Giải pháp
Một là, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền vai trò của ứng dụng CNTT trong chuyển đổi số và nâng cao chất lượng hoạt động THADS; tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm cho công chức, người lao động trong các cơ quan THADS về tầm quan trọng của ứng dụng CNTT và chuyển đổi số trong phát triển kinh tế xã hội và hiện đại hóa hoạt động THADS. Đề ra nhiệm vụ cụ thể theo lộ trình để chỉ đạo triển khai thực hiện.
Thủ trưởng cơ quan THADS trực tiếp chỉ đạo quyết liệt việc khai thác, sử dụng hiệu quả các hệ thống ứng dụng dùng chung, các phần mềm chuyên ngành đã triển khai; yêu cầu cán bộ, công chức chủ động, tích cực, có tinh thần trách nhiệm cao trong việc tăng cường xử lý công việc, trao đổi sử dụng văn bản điện tử trên môi trường mạng, đặc biệt là đẩy mạnh hoạt động số hóa hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính.
Hai là, hoàn thiện thể chế: Nghiên cứu, sửa đổi các quy định của pháp luật về THADS, nhất là các quy định làm cơ sở pháp lý cho việc ứng dụng CNTT, chuyển đổi số và các quy định tái cấu trúc các thủ tục liên quan đến giải quyết việc của người dân và doanh nghiệp trong THADS như: Văn bản điện tử; gửi, nhận văn bản trên môi trường mạng; thủ tục thu, nộp và thanh toán tiền trực tuyến; hồ sơ điện tử; phương thức gửi đơn yêu cầu thi hành án trên môi trường mạng…
Ba là, xây dựng hạ tầng thông tin, hạ tầng số quốc gia đồng bộ, hiện đại: Rà soát lại các nội dung, kế hoạch, dự án, đề án ưu tiên cho hoạt động ứng dụng CNTT, tạo điều kiện thuận lợi cho ứng dụng CNTT phát triển. Ưu tiên nguồn vốn nâng cấp hạ tầng CNTT, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực CNTT. Ưu tiên các đơn vị cung cấp ứng dụng CNTT có kinh nghiệm, nghiệp vụ cao về CNTT. Bên cạnh đó, nghiên cứu cơ chế thuê hạ tầng và các dịch vụ CNTT đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm; đồng thời, thực hiện tốt công tác quản lý và thực thi các chính sách về an toàn thông tin, bảo mật dữ liệu.
Bốn là, về ứng dụng CNTT, công nghệ số: Tiếp tục triển khai các văn bản chỉ đạo về việc tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước. Quán triệt, tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính sách, pháp luật của Nhà nước về chuyển đổi số đến toàn thể công chức, viên chức trong hệ thống THADS. Đảm bảo số hóa tài liệu, hồ sơ, quy trình nghiệp vụ; đảm bảo tỷ lệ văn bản trao đổi giữa cơ quan nhà nước dưới dạng điện tử đạt 100%.
Trong thời gian tới, lĩnh vực THADS cần chú trọng đẩy mạnh công tác số hóa hồ sơ; xây dựng, nâng cấp một số phần mềm nghiệp vụ, xây dựng, hoàn thiện, khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu THADS, theo dõi thi hành án hành chính, bồi thường nhà nước, đảm bảo tài chính; kết nối cơ sở dữ liệu THADS, phần mềm nghiệp vụ trong lĩnh vực THADS với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, phần mềm chuyên ngành có liên quan; ứng dụng các công nghệ mới như công nghệ trí tuệ nhân tạo, công nghệ bigdata... để nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động THADS, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính nhà nước.
Năm là, phát triển nguồn nhân lực CNTT: Kiện toàn tổ chức làm công tác ứng dụng CNTT chuyên trách tại Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan THADS địa phương; tuyển dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ công tác ứng dụng CNTT và chuyển đổi số trong THADS; xây dựng kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống THADS. Tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức tham gia các lớp đào tạo nâng cao kỹ năng về CNTT, chuyển đổi số, an toàn thông tin trong hoạt động chuyển đổi số.
Sáu là, về bảo đảm an toàn thông tin mạng, an ninh mạng cho chuyển đổi số: Phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền quan tâm đầu tư cho việc đảm bảo an toàn thông tin, an ninh thông tin, đặc biệt là các hoạt động trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh; thực hiện tốt công tác bảo mật thông tin, nhất là các thông tin tuyệt mật liên quan đến quốc phòng, an ninh./.
Hoàng Thị Vân Anh
Vụ Nghiệp vụ 3, Tổng cục Thi hành án dân sự
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 409), tháng 7/2024)