Để Nhà nước quản lý thống nhất đất đai theo pháp luật, có cơ sở pháp lý để bảo hộ các quyền hợp pháp của người sử dụng đất, thì nhất thiết phải có thông tin về đất đai. Thông tin đất đai giữ vai trò quan trọng trong công tác quản lý đất đai, là cơ sở để các nhà quản lý hoạch định các chính sách phù hợp và lập kế hoạch hợp lý để phân bổ sử dụng đất cũng như ra các quyết định liên quan đến đầu tư và phát triển để khai thác hợp lý đối với tài nguyên đất. Trong bối cảnh công nghệ thông tin ngày càng phát triển, công cụ hiệu quả giúp giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, yêu cầu tất yếu đặt ra trong quản lý đất đai là phải có sự đổi mới mạnh mẽ về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đất đai.
1. Vai trò của hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đất đai đối với công tác quản lý đất đai
Hệ thống thông tin đất đai là hệ thống tổng hợp các yếu tố hệ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin, phần mềm, dữ liệu và quy trình, thủ tục được xây dựng để thu nhập, lưu trữ, cập nhật, xử lý, phân tích, tổng hợp và truy xuất thông tin đất đai[1]. Trong một hệ thống thông tin đất đai cần phải có đầy đủ các chức năng:
- Chức năng thu thập, lưu trữ, cập nhật và truy xuất dữ liêu: Hệ thống thông tin đất đai cho phép cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thể thu thập, nhập và lưu trữ các thông tin đất đai lần đầu, như thông tin về thửa đất, về chủ sử dụng, loại đất, giá đất, các bất động sản trên đất... Với chức năng này, hệ thống thông tin đất đai có khả năng hỗ trợ công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thông qua việc xây dựng hồ sơ địa chính theo tiêu chuẩn Nhà nước ban hành. Từ các thông tin được đăng ký, lưu trữ, cơ quan quản lý nhà nước về đất đai không chỉ quản lý chi tiết đến từng thửa đất, mà còn có thể quản lý các loại dữ liệu khác trên cùng một cơ sở dữ liệu về đất đai. Bên cạnh đó, chức năng cập nhật dữ liệu của hệ thống thông tin đất đai cũng giúp cho Nhà nước nắm được biến động đất đai theo từng thời kỳ và tại từng thời điểm cụ thể về không gian và thuộc tính trên từng thửa đất có biến động. Khả năng truy xuất dữ liệu của hệ thống thông tin đất đai cũng giúp cơ quan quản lý nhà nước về đất đai dễ dàng lập các báo cáo thống kê theo từng loại đất, từng đơn vị hành chính các cấp mà vẫn đảm bảo được độ tin cậy, độ chính xác cao.
- Chức năng tìm kiếm thông tin: Theo quy định của Nhà nước, mỗi thửa đất phải có một số thửa duy nhất. Hiện nay, các thông tin thường để tra cứu trong hệ thống là mã đơn vị hành chính (từ tỉnh đến xã), mã bản đồ, số thửa trên bản đồ, số thửa phụ. Hệ thống thông tin đất đai dựa trên các yêu cầu của đối tượng cần sử dụng thông tin đất đai để cung cấp thông tin tìm kiếm bao gồm: Thông tin về đồ họa như hình dạng, kích thước, diện tích các thửa đất…; thông tin thuộc tính về chủ sử dụng đất, địa chỉ, các bất động sản trên đất, giá đất, các quyền về đất đai…
- Chức năng trao đổi thông tin: Hệ thống thông tin đất đai có chức năng trao đổi thông tin với các hệ thống thông tin khác, đảm bảo được sự hòa hợp, tương thích về mặt dữ liệu.
- Chức năng phát triển các ứng dụng theo đặc thù của công tác quản lý nhà nước về đất đai: Hệ thống thông tin đất đai có chức năng này làm cho hệ thống mềm dẻo hơn và phục vụ tốt hơn cho công tác xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai tại các địa phương. Theo Luật Đất đai năm 2013, cơ sở dữ liệu đất đai là một trong các thành phần cơ bản của hệ thống thông tin đất đai, là tập hợp các dữ liệu đất đai được sắp xếp, tổ chức để truy cập, khai thác, quản lý và cập nhật thông qua phương tiện điện tử. Hiện nay, đã có nhiều địa phương chính thức đưa cơ sở dữ liệu đất đai vào vận hành, khai thác và sử dụng. Tuy nhiên, cơ sở dữ liệu mới chỉ xây dựng chủ yếu cho thành phần dữ liệu địa chính. Cơ sở dữ liệu địa chính là một thành phần cơ bản của cơ sở dữ liệu đất đai, là tập hợp thông tin có cấu trúc của dữ liệu địa chính (gồm dữ liệu không gian địa chính, dữ liệu thuộc tính địa chính và các dữ liệu khác có liên quan) được sắp xếp, tổ chức để truy cập, khai thác, quản lý và cập nhật thường xuyên bằng phương tiện điện tử[2]. Về bản chất, cơ sở dữ liệu địa chính bao gồm dữ liệu bản đồ địa chính.
- Dữ liệu bản đồ địa chính được lập để mô tả các yếu tố tự nhiên có liên quan đến việc sử dụng đất bao gồm các thông tin như: Vị trí, hình dạng, kích thước, tọa độ đỉnh thửa, số thứ tự, diện tích, mục đích sử dụng của các thửa đất. Vị trí, hình dạng, diện tích của hệ thống thủy văn; hệ thống thủy lợi; hệ thống đường giao thông và các khu vực đất chưa sử dụng không có ranh giới thửa khép kín. Vị trí, tọa độ các mốc giới và đường địa giới hành chính các cấp, mốc giới và chỉ giới quy hoạch sử dụng đất, mốc giới và ranh giới hành lang bảo vệ an toàn công trình. Điểm tọa độ địa chính, địa danh và các ghi chú thuyết minh.
- Các dữ liệu thuộc tính địa chính được lập để thể hiện nội dung của sổ mục kê đất đai, sổ địa chính và sổ theo dõi biến động đất đai quy định tại Điều 47 của Luật Đất đai năm 2013 bao gồm các thông tin về thửa đất; về các đối tượng có chiếm đât nhưng không tạo thành thửa đất (không có ranh giới khép kín trên bản đồ); về người sử dụng đất hoặc người quản lý đất; về tình trạng sử dụng đất; về những biến động trong quá trình sử dụng đất. Chức năng của cơ sở dữ liệu địa chính phải đảm bảo được chức năng của hồ sơ địa chính, tức là, thể hiện thông tin chi tiết về hiện trạng và tình trạng pháp lý của việc quản lý, sử dụng các thửa đất, tài sản gắn liền với đất để phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai và nhu cầu thông tin của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Cơ sở dữ liệu địa chính có thể làm cơ sở để xây dựng các cơ sở dữ liệu thành phần khác như: Dữ liệu quy hoạch, dữ liệu giá đất, dữ liệu hiện trạng sử dụng đất, dữ liệu chất lượng đất và các dữ liệu liên quan khác...
Có thể thấy, hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai là công cụ hiện đại được xây dựng dựa trên những giải pháp khoa học - công nghệ tiên tiến, nhằm trợ giúp và đáp ứng những nhu cầu cấp thiết cho công tác quản lý nhà nước về đất đai. Việc xây dựng hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai là yêu cầu cơ bản để xây dựng hệ thống quản lý đất đai, giúp hiện đại hóa hệ thống quản lý và cập nhật, chỉnh lý biến động nguồn dữ liệu đất đai thống nhất từ trung ương đến địa phương, đảm bảo cung cấp thông tin, dữ liệu đất đai nhanh gọn, chính xác, phục vụ tốt quản lý nhà nước về đất đai, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học, đào tạo, hợp tác quốc tế; phát triển “Chính phủ điện tử” trong quản lý đất đai và đặc biệt là nhu cầu khai thác thông tin thường xuyên của người dân và doanh nghiệp góp phần làm minh bạch hóa thị trường bất động sản. Hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất có vai trò quan trọng và vô cùng cần thiết, phục vụ các nhu cầu khai thác sử dụng khác nhau về thông tin đất đai của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan và của cả cộng đồng xã hội.
Đối với người sử dụng đất, hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai giúp cho chủ sở hữu xác định rõ phạm vi quyền và lợi ích mà mình được hưởng, những nghĩa vụ mà mình phải thực hiện trên một diện tích đất nhất định và tài sản gắn liền với đất. Các thông tin đất đai được cung cấp giúp cho người sử dụng đất có thể mô tả chính xác và đúng đắn về tình trạng thửa đất, xác định rõ những đặc điểm về thửa đất, tài sản gắn liền với đất cũng như nhận thức được quyền của họ trong một phạm vi ranh giới cụ thể, rõ ràng và vị trí của họ khi tham gia vào giao dịch đất đai. Từ đó, quyền lợi của người sử dụng được ghi nhận, được bảo vệ bởi pháp luật đất đai, giúp họ hoàn toàn yên tâm trong hoạt động đầu tư, khai thác đất đai, tạo điều kiện để họ đưa đất đai và các tài sản gắn liền với đất tham gia vào trong giao dịch, đầu tư, không chỉ góp phần mang lại nguồn vốn lớn cho bản thân người sử dụng đất, mà còn cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
Đối với Nhà nước, xây dựng hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai là nền tảng để xây dựng mục tiêu phát triển “Chính phủ điện tử”. Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã chỉ rõ: “Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin về đất đai và tài sản gắn liền với đất theo hướng hiện đại, công khai, minh bạch, phục vụ đa mục tiêu; từng bước chuyển sang giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai”. Hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai là công cụ hỗ trợ đắc lực quá trình xây dựng pháp luật đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, tài chính về đất đai… Nhà nước muốn quản lý đất đai theo quy hoạch và định hướng cho hoạt động sử dụng đất có hiệu quả, hạn chế những tác động xấu đến tài nguyên đất nói riêng và môi trường nói chung, thì cần phải hiểu rõ hiện trạng đất đai, mà muốn vậy, thì phải nắm chắc các thông tin về đất đai. Đây là lợi ích thiết thực mà hệ thống thông tin đất đai mang lại. Các thông tin từ hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai sẽ giúp Nhà nước thiết lập một nền tảng hiệu quả và công bằng trong việc xác định và thu các loại thuế liên quan đến đất đai. Những thông tin rõ ràng và sự đảm bảo về quyền lợi của người sử dụng đất, cùng với sự thuận tiện trong việc tiếp cận thông tin còn thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, kích thích sự phát triển kinh tế của từng địa phương và trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, một tác dụng lớn hơn góp phần quan trọng trong công tác quản lý đất đai đó là cung cấp cơ sở pháp lý đang tin cậy dựa trên các thông tin và dữ liệu đất đai được lưu trữ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào đó giải quyết các tranh chấp đất đai, góp phần ngăn chặn ngay từ đầu những tranh chấp hay các tư tưởng tranh chấp liên quan đất đai rất dễ nảy sinh nếu thiếu hụt các thông tin liên quan đến đất đai.
Tóm lại, hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai có vai trò to lớn trong công tác quản lý đất đai, tránh được những trường hợp sai sót, nhầm lẫn, chồng chéo do các thông tin và dữ liệu đất đai phục vụ quản lý được tổ chức thành một hệ thống. Các thông tin được minh bạch, công khai hóa góp phần đảm bảo được tính công bằng xã hội và hỗ trợ người thực hiện chức năng giám sát các hoạt động của Nhà nước. Qua đó, đáp ứng được nhu cầu tiếp cần thông tin đất đai của người dân và tổ chức, cũng như góp phần cải cách thủ tục hành chính đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất đai và hạn chế tham nhũng trong bộ máy quản lý đất đai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
2. Quy định về hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai trong Luật Đất đai năm 2013
Luật Đất đai năm 2013 đã dành một chương gồm 5 điều (từ Điều 120 đến Điều 124 chương IX) quy định về hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai. Những quy định này lần đầu tiên được luật hóa trong Luật Đất đai và thống nhất những quy định rải rác thiếu tính hệ thống về vấn đề này trong pháp luật đất đai trước đây.
Thứ nhất, về hệ thống thông tin đất đai. Điều 120 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định hệ thống thông tin đất đai phải được xây dựng theo tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia, quốc tế được công nhận tại Việt Nam và phải thống nhất trên phạm vi cả nước. Quy định này xuất phát từ thực tế hiện nay hệ thống thông tin đất đai thiếu sự thống nhất từ trung ương đến địa phương và vẫn còn manh mún, phân tán theo từng cấp quản lý, thêm vào đó, đa số hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai ở các địa phương chưa thực sự đầy đủ, chi tiết đến từng thửa đất. Điều này gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thông tin về đất đai. Chính vì vậy, đặt ra yêu cầu tất yếu phải xây dựng một hệ thống thông tin đất đai thống nhất một cách triệt để theo một tiêu chuẩn chung trên phạm vi cả nước, từ đó, góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai cũng như khác phục được tình trạng phân chia phạm vi, thẩm quyền quản lý và độc quyền thông tin về đất đai. Bên cạnh đó Điều 120 Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định rõ hệ thống thông tin đất đai bao gồm: (i) Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin đất đai; (ii) Hệ thống phần mềm hệ điều hành, phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng; (iii) Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia. Đây là một sự khẳng định rõ ràng, hệ thống thông tin đất đai không chỉ bao gồm các thông tin, dữ liệu về đất đai, mà công nghệ và phầm mềm cũng chính là “tài nguyên” của hệ thống thông tin đất đai. Đồng thời, để đáp ứng được đa mục tiêu, hướng tới việc xây dựng “Chính phủ điện tử”, yêu cầu bắt buộc phải tin học hóa, hiện đại hóa, áp dụng công nghệ trong việc xây dựng, xác lập và lưu trữ hệ thống thông tin đất đai.
Thứ hai, về cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia. Điều 121 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định rõ cơ sở dữ liệu đất đai ngoài cơ sở dữ liệu về địa chính, còn bao gồm nhiều thành phần khác, đó là các thông tin liên quan đến đất và tài sản gắn liền với đất như về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, về giá đất hay về thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai… Các thành phần cơ sở dữ liệu này tạo nên một cơ sở dữ liệu đất đai nói chung chứa đựng các thông tin bao quát và đầy đủ nhất về đất đai. Nhờ đó, việc cập nhật dữ liệu đăng ký đất đai chỉ cần thực hiện một lần mà vẫn mang tính thống nhất và tạo ra sự liên kết giữa các cơ sở dữ liệu với nhau, giúp việc tra cứu, phân tích, đánh giá và dự báo của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai được tiến hành dễ dàng, khắc phục được tình trạng rắc rối, phức tạp về thủ tục vì thông tin bị chia tách, cũng như giải quyết được những khó khăn vẫn còn tồn tại trong quá trình quản lý thông tin.
Thứ ba, về quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu đất đai. Điều 122 Luật Đất đai năm 2013 ghi nhận nội dung công nhận thông tin trong cơ sở dữ liệu đất đai được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp và thông tin được lưu trữ trong hồ sơ dạng giấy ở các địa phương có giá trị pháp lý tương đương nhau. Quy định này cũng khẳng định cơ sở dữ liệu đất đai là tài sản của Nhà nước, phải được bảo đảm an ninh, an toàn chặt chẽ; nghiêm cấm mọi hành vi truy cập trái phép, phá hoại làm sai lệch thông tin trong cơ sở dữ liệu đất đai. Khi tổ chức, cá nhân có nhu cầu về thông tin, dữ liệu đất đai được khai thác, sử dụng qua cổng thông tin đất đai về trung ương, địa phương và phải nộp phí, khi thực hiện khai thác thông tin, dữ liệu đất đai phải thực hiện đúng quy định của pháp luật. Những quy định này đảm bảo cho sự ổn định trong hoạt động và hiệu quả của toàn hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đất đai, đảm bảo cho lợi ích của chủ sở hữu và những chủ thể liên quan, đảm bảo sự an toàn cho thị trường bất động sản, thị trường vốn cũng như tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai.
Thứ tư, về dịch vụ công điện tử trong lĩnh vực đất đai. Điều 123 Luật Đất đai năm 2013 quy định đầy đủ các dịch vụ công điện tử được thực hiện bao gồm: Đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất; thực hiện các giao dịch về đất đai và tài sản gắn liền với đất; cung cấp thông tin, dữ liệu về đất đai. Các dịch vụ công được thực hiện bởi cơ quan quản lý đất đai. Cơ quan quản lý đất đai có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ thuận tiện, đơn giản, an toàn cho tổ chức và cá nhân trên môi trường mạng. Quy định về các dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai nhằm khắc phục những khó khăn, rào cản về thủ tục, về con người trong việc đăng ký đất đai, tiếp cận và sử dụng thông tin đất đai. Qua đó, góp phần đơn giản hóa các thủ tục hành chính có liên quan đến đất đai, minh bạch các thông tin liên quan đến đất đai đặc biệt là các thông tin có liên quan đến quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng đất, giúp cho thị trường bất động sản được ổn định, phát triển bền vững, lành mạnh; khắc phục được tình trạng tham ô, tham nhũng vẫn còn tồn tại do tình trạng độc quyền thông tin đất đai, coi thông tin đất đai là tài sản riêng của một số cá nhân.
Thứ năm, về trách nhiệm xây dựng hệ thống thông tin đất đai. Hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai được thực hiện theo chính sách đầu tư xây dựng của Nhà nước. Nhà nước bảo đảm kinh phí vận hành, duy trì hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin đất đai, điều kiện của tổ chức, cá nhân hoạt động tư vấn về xây dựng cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin đất đai. Trách nhiệm của các cơ quan khác đối với việc xây dựng hệ thống thông tin đất đai được quy định cụ thể như sau:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổ chức xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia; thực hiện dịch vụ công điện tử trong lĩnh vực đất đai theo quy định của Chính phủ.
- Bộ, ngành, cơ quan có liên quan có trách nhiệm cung cấp kết quả điều tra cơ bản và các dữ liệu, thông tin có liên quan đến đất đai cho Bộ Tài nguyên và Môi trường để cập nhật vào cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia, hệ thống thông tin đất đai.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đất đai ở địa phương; cung cấp dữ liệu đất đai cho Bộ Tài nguyên và Môi trường để tích hợp vào cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia.
3. Đánh giá công tác xây dựng hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai trên thực tế thời gian qua
3.1. Những thành tựu đạt được
Theo ông Võ Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm dữ liệu và thông tin đất đai (Tổng cục Quản lý đất đai), tính đến tháng 12/2020, trên cả nước đã có 100% các đơn vị cấp huyện ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ địa chính, quản lý đất đai ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, mới có 192/707 đơn vị hành chính cấp huyện thuộc 49 tỉnh/thành phố đang vận hành, quản lý khai thác, sử dụng đồng bộ cơ sở dữ liệu đất đai để phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn với cơ sở dữ liệu với hơn 22 triệu thửa đất và hơn 11 triệu hồ sơ. Đặc biệt chỉ có 6 tỉnh, thành phố cơ bản đã hoàn thành xây dựng việc cơ sở dữ liệu địa chính và đưa vào vận hành, khai thác theo mô hình tập trung cấp tỉnh gồm: Vĩnh Long, Đồng Nai, Đà Nẵng, Bình Dương, Bình Định, Bến Tre[3]. Một số địa phương đang bắt đầu tiền hành các thành phần khác của cơ sở dữ liệu đất đai, như: Cơ sở dữ liệu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cơ sở dữ liệu giá đất, cơ sở dữ liệu thống kê, kiểm kê đất đai... Đã có 63 tỉnh, thành phố trang bị đường truyền kết nối tử văn phòng đăng ký đất đai đến các chi nhánh văn phòng đăng ký đất của các nhà cung cấp như VNPT, Viettel, FPT… Một số tỉnh đang thử nghiệm thuê dịch vụ hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin từ các tập đoàn lớn, trang bị máy trạm và trang thiết bị đã trang bị cho các cá nhân vận hành. Hiện nay, các phầm mềm ứng dụng của hệ thống thông tin đất đai đang được các tỉnh sử dụng bao gồm: ViLIS, ELIS, TMV.LIS, DongNai.LIS, South.LIS; ngoài ra, còn có một số phần mềm đang được thử nghiệm như VietLIS, VBDLIS, VNPT-iLIS. Các phần mềm này có chức năng hỗ trợ công tác đo đạc lập, chỉnh lý bản đồ địa chính, tạo lập cơ sở dữ liệu đất đai; ứng dụng quản trị, vận hành cơ sở dữ liệu đất đai; ứng dụng khai thác cơ sở dữ liệu đất đai. Trên địa bàn cả nước hiện có 3 mô hình hệ thống cơ sở dữ liệu đang được vận hành bao gồm mô hình tập trung cấp tỉnh, mô hình bán tập trung cấp tỉnh và mô tình phân tán cấp huyện. Một số địa phương đã thực hiện được liên thông điện tử từ phần mềm một cửa điện tử tới phần mềm ứng dụng của hệ thống thông tin đất đai như Đà Nẵng, Huế, Long An, Đồng Nai. Một số tỉnh thành phố đã thực hiện được việc kết nối, liên thông, trao đổi thông tin điện tử giữa các cơ quan thuế và cơ quan tài nguyên môi trường về việc xác định các nghĩa vụ tài chính mà các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất phải thực hiện[4].
3.2. Những hạn chế còn tồn tại
Luật Đất đai năm 2013 đã có những nội dung đổi mới quan trọng như: Nâng thời hạn giao đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân; công khai, minh bạch và dân chủ trong quản lý, sử dụng đất; quy định việc tham gia của người dân, trách nhiệm giải trình của Nhà nước; quy định cụ thể về việc giám sát đối với công tác quản lý, sử dụng đất của các cơ quan dân cử, của công dân và hình thành hệ thống theo dõi, đánh giá đối với quản lý và sử dụng đất. Để góp phần cải cách thủ tục hành chính, tăng tính minh bạch trong quản lý đất đai, thời gian qua, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước về đất đai, mà xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đất đai là một trong số những nội dung được quan tâm, chú trọng. Tuy nhiên, hệ thống dữ liệu thông tin về đất đai vẫn còn hạn chế, việc lưu trữ dữ liệu còn phân tán và chưa được quản lý và đưa vào vận hành một cách tối ưu, dẫn tới hiệu quả khai thác và sử dụng những dữ liệu này cho công tác quản lý của Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, các thông tin, dữ liệu đất đai nhất là các thông tin liên quan đến đăng ký đất đai vẫn chưa thực sự hoàn thiện mà chủ yếu vẫn được lưu trữ dưới dạng hồ sơ giấy với độ chính xác và tin cậy chưa cao. Người dân và doanh nghiệp khi có nhu cầu cần được cung cấp, khai thác thông tin đất đai vẫn chưa được đáp ứng kịp thời, đầy đủ và chính xác nhất. Hệ thống theo dõi, đánh giá quản lý sử dụng đất đai chưa được xây dựng hoàn thiện và đưa vào sử dụng hiệu quả. Hạ tầng thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa thực hiện được chức năng hỗ trợ vận hành công tác chuyên môn, cải cách thủ tục hành chính, phục vụ cho việc phối, kết hợp trong công tác quản lý đất đai nói riêng và công tác quản lý nhà nước nói chung. Vấn đề quản lý, kết nối, tổng hợp cơ sở dữ liệu đất đai ở địa phương để đưa vào cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia vẫn chưa được triển khai một cách thống nhất. Các địa phương mới chỉ tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai nhưng chưa quan tâm đầu tư vào đường truyền và hạ tầng trang thiết bị thông tin để phục vụ công tác thu thập, lưu trữ, tra cứu thông tin đất đai, không quan tâm đến việc cập nhật biến động đất đai dẫn tới tình trạng nhiều thông tin đất đai trở nên lỗi thời, không còn giá trị sử dụng[5].
4. Một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai
Có thể thấy, nội dung của Luật Đất đai năm 2013 về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đất đai được xây dựng khá cơ bản và hợp lý, căn bản để giải quyết được những tồn tại vướng mắc trong thời gian qua và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn thực hiện công tác quản lý đất đai. Tuy nhiên, để việc thực thi Luật có hiệu quả, cần làm rõ thêm một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, đề xuất thêm những cơ sở dữ liệu thành phần khác cho cơ sở dữ liệu đất đai:
- Cơ sở dữ liệu về biến động sử dụng đất chứa đựng các thông tin về biến động sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất giữa các giai đoạn, thời kỳ; giữa các thửa đất và giữa những người sử dụng đất với nhau. Đất đai là lĩnh vực thường xuyên có biến động, nếu sự biến động liên tiếp xảy ra mà các chủ thể không làm chủ được thì sẽ có ảnh hưởng nghiệm trọng đến đất đai dẫn dến tranh chấp, khiếu nại và nhiều vấn đề tiêu cực khác. Vì vậy, trong hệ thống thông tin đất đai cần có cơ sở dữ liệu về biến động sử dụng đất để quản lý vấn đề sử dụng đất thống nhất và hiệu quả hơn.
- Cơ sở dữ liệu về tài sản, cơ sở hạ tầng gắn liền với đất: Là cơ sở dữ liệu về các phần tài sản, cơ sở hạ tầng gắn liền với đất. Trong nhiều trường hợp, tài sản gắn liền với đắt làm tăng giá trị của thửa đất lên rất nhiều. Hệ thống thông tin đất đai chứa đựng cơ sở dữ liệu về tài sản gắn liền với đất sẽ góp phần ổn định tài chính và giá đất.
- Cơ sở dữ liệu về thu hồi và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sau khi thu hồi đất: Là cơ sở dữ liệu về việc thực hiện các hoạt động thu hồi và bồi thường sau khi thu hồi đất của người sử dụng đất mà có thể dẫn đến nhiều sự tác động như: thay đổi người sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử đụng đất, tính pháp lý của thửa đất, mục đích sử dụng đất… Do đó, hệ thống thông tin đất đai cần lưu trữ và phân tích, xử lý các thông tin về thu hồi và tính ra mức bồi thường, đền bù, tái định cư sau khi thu hồi đất.
- Cơ sở dữ liệu các hoạt động dịch vụ về đất đai chứa đựng thông tin về các hoạt động dịch vụ liên quan đến đất đai. Các hoạt động dịch vụ thực hiện các giao dịch, hoạt động trên đất đai để đáp ứng nhu cầu của người dân. Các hoạt động này sẽ ảnh hương trực tiếp đến việc sử dụng và quản lý đất đai như: giá đất, lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đo đạc và lập bản đồ địa chính, thông tin đất đai… Hệ thống thông tin đất đai cần lưu trữ và xử lý các thông tin về các hoạt động dịch vụ đất đai để quản lý đất đai có hiệu quả.
Thứ hai, làm rõ tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia hay quốc tế được công nhận tại Việt Nam đối với hệ thống thông tin đất đai bao gồm những tiêu chí cụ thể nào, trong đó, cơ bản phải thể hiện được những nội dung cơ bản sau: Hệ thống thông tin đất đai phải có khả năng chứa đựng, quản lý và đảm bảo an toàn dữ liệu theo một mô hình thống nhất bởi đặc thù dữ liệu đất đai có dung lượng lớn (nhất là các thông tin về bản đồ và quy hoạch sử dụng đất) và được cung cấp bởi các chuyên ngành khác nhau, với những khuôn dạng dữ liệu khác nhau (như địa chính, thông tin quyền, quy hoạch, giá đất…). Đồng thời, hệ thống phải có khả năng liên kết, trao đổi, cập nhật và cung cấp thông tin với các hệ thống khác giữa các ngành và giữa các địa phương. Hệ thống phải đơn giản để thuận tiện cho việc đào tạo, tập huấn, triển khai tại các địa phương, cũng như dễ sử dụng cho người có nhu cầu với nhiều loại thông tin cung cấp và nhiều phương tiện trao đổi thông tin (thiết bị lưu trữ, truy cập mạng hoặc văn bản trực tiếp…) phù hợp với hạ tầng kỹ thuật của đường truyền dữ liệu, nhưng trên cơ sở có khả năng nâng cấp, mở rộng chức năng. Cơ sở dữ liệu của hệ thống phải được đảm bảo cập nhật thường xuyên từ địa phương, phản ánh đúng tình hình biến động trong sử dụng đất[6].
Thứ ba, cần nghiên cứu hướng tới ban hành quy định pháp luật về quản lý khai thác cơ sở dữ liệu và cung cấp dịch vụ công điện tử trong lĩnh đất đai. Quy định rõ quy chế bảo vệ an toàn và an ninh thông tin; quy định rõ thông tin nào có thể tiếp cận, tiếp cận hạn chế và thông tin nào cần được bảo mật để bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất, người sở hữu tài sản gắn liền với đất và các chủ thể liên quan khác; đồng thời với mỗi chủ thể quy định mức tiếp cận thông tin khác nhau.
Thứ tư, cần quy đinh rõ trách nhiệm trao đổi thông tin và chuyển tải dữ liệu về hệ thống của ngành Tài nguyên - Môi trường và các cơ quan quản lí dữ liệu liên quan; cần thiết xác định quy trình chuyển tải và xử lý, cập nhật thông tin với thời gian cụ thể và thứ tự thông tin được ưu tiên xử lý, cập nhật. Với quy trình này sẽ đảm bảo cho hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai được cập nhật thường xuyên, phân định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, giúp cho việc thu nhận và sử dụng thông tin được đầy đủ hơn, hiệu quả hơn.
Thứ năm, cần làm rõ cách thức để phổ biến về hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, dân trí của từng địa phương trên cả nước. Bên cạnh đó, hướng dẫn việc đào tạo, tập huấn nhân sự có trình độ chuyên môn, nắm bắt được công nghệ làm công tác này một cách hiệu quả.
Có thể nói, với xu hướng phát triển bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay, các địa phương, đặc biệt là các thành phố lớn cần đẩy mạnh xây dựng cơ sở dữ liệu về quản lý đất đai để đáp ứng với nhu cầu quản lý đô thị nói chung, trong đó có nhu cầu về quản lý đất đai trong quá trình phát triển đô thị. Hệ thống thông tin đất đai phát triển sẽ dần khắc phục được hạn chế trong công khai, minh bạch thông tin đất đai, góp phần tăng nguồn thu, giảm chi phí, cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi và thúc đẩy thực hiện các giao dịch về đất đai, cải thiện lòng tin của người dân đối với chính quyền, tăng sự tín nhiệm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Ngoài ra, còn giúp xây dựng Chính phủ liêm chính theo định hướng của Đảng và Nhà nước, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đem lại các hiệu quả kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, nhất là lợi ích kinh tế, tăng thu ngân sách, đảm bảo công bằng xã hội cho mọi người dân, mọi thành phần trong xã hội./.
Trường Đại học Luật Hà Nội