Trước tiên, thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, ông Chu Văn Yêm - Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước đã công bố toàn văn Lệnh của Chủ tịch nước công bố các Luật vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 8, bao gồm: Luật Đầu tư; Luật Doanh nghiệp; Luật Hộ tịch; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Luật Giáo dục nghề nghiệp.
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước nhấn mạnh: Các Luật được Quốc hội thông qua lần này có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế của pháp luật hiện hành và bổ sung những quy định mới cho phù hợp thực tiễn cuộc sống, đặc biệt là trong bối cảnh triển khai thực hiện các quy định của Hiến pháp năm 2013.
Sau đó, đại diện các Bộ trình bày nội dung cơ bản của các Luật mà đơn vị mình chủ trì soạn thảo. Cụ thể:
Luật Đầu tư
Với 07 chương, 76 điều, Luật Đầu tư có những đổi mới quan trọng như: (i) Bảo đảm thực hiện nguyên tắc Hiến định về quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân trong các ngành, nghề mà Luật không cấm. Theo đó, việc tập hợp, rà soát và quy định cụ thể Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư, kinh doanh theo phương pháp loại trừ (chọn bỏ) đã góp phần đổi mới căn bản nguyên tắc áp dụng pháp luật, từ việc nhà đầu tư chỉ được quyền thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật cho phép sang nguyên tắc được tự do đầu tư, kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà Luật không cấm hoặc quy định phải có điều kiện; (ii) Củng cố, hoàn thiện cơ chế bảo đảm đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể, Luật Đầu tư năm 2014 cập nhật các quy định về việc Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư và cam kết bồi thường thỏa đáng, công bằng trong trường hợp trưng thu, quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp; (iii) Hoàn thiện các quy định về ngành, nghề ưu đãi đầu tư nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư; (iv) Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính gắn liền với việc nâng cao trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án đầu tư thông qua việc bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với tất cả các dự án đầu tư trong nước; đơn giản hóa hồ sơ, trình tự, thủ tục và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài (từ 45 ngày theo Luật Đầu tư hiện hành xuống còn 15 ngày); (v) Hoàn thiện chế độ phân cấp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư; (vi) Hoàn thiện các quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Luật Đầu tư sửa đổi có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015.
Luật Doanh nghiệp
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông khẳng định, thay đổi mang tính đột phá của Luật là thể chế hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh theo Hiến pháp năm 2013, theo đó doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp được coi là thủ tục khai sinh ra doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là “giấy khai sinh” của doanh nghiệp mới. Do đó, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp không bao gồm thông tin về ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp, mà chỉ bao gồm thông tin cơ bản về doanh nghiệp như mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính và thông tin về người đại diện theo pháp luật. Tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, thông tin về ngành, nghề kinh doanh dự kiến của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự khai và lưu trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp chủ động tiến hành hoạt động kinh doanh mới ngay khi có đủ điều kiện kinh doanh và sau đó thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh để lưu vào hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Thay đổi này sẽ giảm đáng kể rủi ro thương mại và pháp lý cho doanh nghiệp; tăng tính chủ động, sáng tạo cho doanh nghiệp trong kinh doanh, qua đó, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tận dụng hết tiềm năng và cơ hội kinh doanh để phát triển.
Ông Đặng Huy Đông cho biết thêm, nhằm tạo thuận lợi tối đa cho quá trình gia nhập thị trường, Luật đã có nhiều cải cách quan trọng trong việc giảm chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính có liên quan; giảm chi phí, tạo cơ chế vận hành linh hoạt, hiệu quả cho tổ chức quản trị doanh nghiệp, cơ cấu lại doanh nghiệp, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, cổ đông, thành viên công ty.
Ngoài ra, Luật đã quy định phương thức quản lý nhà nước mới, hiện đại phù hợp với sự phát triển ngày càng mở rộng của nền kinh tế. Các nguyên tắc về quản lý nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp được cụ thể hóa trong Luật Doanh nghiệp theo nguyên tắc Nhà nước có trách nhiệm giám sát doanh nghiệp để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, nhưng Nhà nước không phải là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm giám sát hoạt động doanh nghiệp mà các bên có liên quan như cổ đông, bạn hàng, khách hàng,… cũng phải tích cực, chủ động tham gia vào giám sát doanh nghiệp vì lợi ích của chính mình.
Luật Doanh nghiệp sửa đổi có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015.
Luật Hộ tịch
Theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc, thì mục tiêu của việc xây dựng Luật Hộ tịch là nhằm tạo cơ sở pháp lý ổn định, thống nhất, lâu dài cho công tác đăng ký, quản lý hộ tịch ở nước ta theo hướng từng bước chuyên nghiệp, hiện đại, bảo đảm một cách thuận lợi cho người dân thực hiện quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch theo quy định của Bộ luật Dân sự, các luật chuyên ngành khác, góp phần tăng cường quản lý dân cư trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Luật Hộ tịch chủ yếu luật hóa các quy định hiện hành (trong các nghị định của Chính phủ, thông tư và thông tư liên tịch của Bộ, liên Bộ), đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đồng thời, quy định một số nội dung mới theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch, hiện đại gắn kết với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch, nhằm bảo đảm lợi ích của người dân và quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch. So với quy định của pháp luật hộ tịch hiện hành, Luật Hộ tịch có những nội dung mới cơ bản như: Luật đề cao tầm quan trọng của việc đăng ký khai sinh và cấp giấy khai sinh, đồng thời quy định việc cấp Số định danh cá nhân khi đăng ký khai sinh (trong thời gian tới, Chính phủ sẽ ban hành nghị định quy định cấu trúc số định danh cá nhân; trình tự, thủ tục cấp số định danh cá nhân); Luật quy định xây dựng Cơ ở dữ liệu hộ tịch điện tử để lưu giữ thông tin hộ tịch của các nhân (song song với cơ sở dữ liệu giấy), đồng thời kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đặc biệt, Luật mở ra cơ hội cho người dân có quyền lựa chọn phương thức phù hợp, thuận tiện nhất để thực hiện yêu cầu đăng ký hộ tịch; thủ tục đăng ký hộ tịch được quy định theo hướng đơn giản, cắt giảm tối đa những giấy tờ không cần thiết, khi đăng ký hộ tịch, người dân được cấp trích lục hộ tịch; luật hóa những quy định về tiêu chuẩn công chức làm công tác hộ tịch.
Đồng thời, Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc khẳng định, để chuẩn hóa đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ rà soát, bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch, kiện toàn đội ngũ này.
Luật Hộ tịch có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự
Việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, bền vững tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, góp phần bảo đảm thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó, bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Với quan điểm chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề đã được Bộ Chính trị kết luận, những vấn đề thực sự cần thiết, cấp bách đã được nghiên cứu rõ về lý luận, được thực tiễn kiểm nghiệm phù hợp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự có một số đổi mới cơ bản so với Luật hiện hành như:
Bổ sung các quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền, nghĩa vụ liên quan theo hướng tăng cường sự chủ động, nâng cao trách nhiệm của các bên trong quá trình tổ chức thi hành án. Mặt khác, Luật đã quy định chuyển việc xác minh điều kiện thi hành án từ nghĩa vụ của người được thi hành án thành trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự nhằm giảm bớt khó khăn cho người được thi hành án, đồng thời, người được thi hành án không phải chịu chi phí xác minh.
Luật bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn mới của Tòa án đảm bảo việc phân công rõ ràng, hợp lý trách nhiệm giữa Tòa án với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; tăng cường trách nhiệm và hoàn thiện quy trình, thủ tục pháp lý để Tòa án, theo chức năng của mình giải thích, làm rõ nội dung bản án, quyết định do mình tuyên và giải quyết các vấn đề pháp lý có liên quan trong trường hợp làm thay đổi nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Tòa án, thi hành án dân sự và kiểm sát trong việc thi hành án dân sự được bảo đảm tốt hơn, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
Luật bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn mới nhằm tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của Ủy ban nhân dân các cấp trong thi hành án dân sự; quy định đầy đủ, chặt chẽ, công khai, minh bạch hơn về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự; xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong thi hành án dân sự.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt
Đại diện Bộ Tài chính, Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn khẳng định, mục tiêu quan trọng khi tiến hành sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với cam kết quốc tế, góp phần định hướng sản xuất, tiêu dùng của xã hội; kịp thời sửa đổi, bổ sung những vấn đề bất cập so với thực tế, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và ổn định của hệ thống pháp luật; bảo đảm nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước; bảo đảm chính sách đơn giản, minh bạch, tạo thuận lợi hơn cho người nộp thuế và góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, hiện đại hóa công tác quản lý thuế.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt có những điểm mới cơ bản so với Luật hiện hành, thể hiện:
Về đối tượng chịu thuế, thì "xăng các loại" thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, theo đó, từ ngày 01/01/2016, nap-ta (bao gồm cả con-đen-sát), chế phẩm tái hợp và các chế phẩm khác để pha chế xăng không thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt; tàu bay phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng thuộc đối tượng không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt do quá trình thực hiện Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt phát sinh vướng mắc đối với trường hợp nhập khẩu loại tàu bay này.
Về thuế suất, Luật đã sửa đổi thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt hàng, cụ thể: Quy định lộ trình tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá (từ ngày 01/01/2016 tăng từ 65% lên 70%, từ ngày 01/01/2019 tăng từ 70% lên 75%); thuế suất đối với mặt hàng rượu (đối với rượu từ 20 độ trở lên: Áp dụng thuế suất 55% từ ngày 01/01/2016, 60% từ ngày 01/01/2017 và 65% từ ngày 01/01/2018; đối với rượu dưới 20 độ: Áp dụng thuế suất 30% từ ngày 01/01/2016 và 35% từ ngày 01/01/2018); thuế suất đối với mặt hàng bia (từ ngày 01/01/2016 tăng từ 50% lên 55%, từ ngày 01/01/2017 tăng lên 60%, từ ngày 01/01/2018 tăng lên 65%); thuế suất đối với mặt hàng xăng sinh học (để khuyến khích hơn nữa việc sử dụng nhiên liệu sinh học, sử dụng nhiên liệu còn từ sản xuất trong nước, góp phần bảo vệ môi trường, Luật đã quy định mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt ưu đãi đối với sinh sinh học là 8% đối với xăng E5 và 7% đối với xăng E10); thuế suất đối với hoạt động kinh doanh ca-si-nô, trò chơi điện tử (Luật quy định chỉnh tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với kinh doanh ca-si-nô (bao gồm cả trò chơi điện tử có thưởng) từ 30% lên 35%).
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế
Với mục tiêu hỗ trợ tích cực hơn đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam phát huy được các lợi thế, tận dụng được các cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế có những nội dung thay đổi quan trọng như:
Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Bổ sung đối tượng được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; bổ sung đối tượng được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức cao nhất đối với dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, dự án sản xuất có quy mô lớn; bổ sung nguyên tắc áp dụng ưu đãi khi pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp có sự thay đổi, nguyên tắc về thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với trường hợp doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; bãi bỏ quy định khống chế đối với chi phí quảng cáo, khuyến mại... của doanh nghiệp.
Về thuế giá trị gia tăng: Bổ sung đối tượng không chịu thuế đối với tàu đánh bắt xa bờ; chuyển 03 nhóm mặt hàng thuộc diện áp dụng thuế suất 5% sang đối tượng không chịu thuế (là phân bón; thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản suất nông nghiệp).
Về thuế tài nguyên: Để giải quyết vướng mắc trong quan hệ thương mại quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập, Luật quy định chuyển từ đối tượng được miễn thuế sang đối tượng không chịu thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp.
Về thuế thu nhập cá nhân: Luật sửa đổi thuế đối với cá nhân kinh doanh, bổ sung thu nhập thuộc diễn miễn thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập của một số đối tượng cụ thể; Luật quy định áp dụng phương pháp tính thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán là thuế suất 0,1% trên giá chuyền nhượng và không thực hiện quyết toán thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán; mức thuế suất đối với thuế chuyển nhượng bất động sản của cá nhân là 2% trên giá chuyển nhượng từng lần; bãi bỏ thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ trúng thưởng trong ca-si-nô.
Về quản lý thuế: Đơn giản hóa hồ sơ khai thuế; giảm mức tính tiền chậm nộp; không áp dụng các biện pháp cưỡng chế và không tính tiền chậm nộp đối với trường hợp người nộp thuế cung ứng hàng hóa, dịch vụ được thanh toán bằng vốn ngân sách nhà nước nhưng chưa được thanh toán nên không nộp đúng hạn các khoản thuế dẫn đến nợ thuế; sửa đổi quy định về quy đổi tỷ giá trong việc tính thuế và nộp thuế vào ngân sách nhà nước.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015.
Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp
Với 10 chương, 66 điều, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp quy định về: Mục tiêu, nguyên tắc, hình thức, phạm vi thẩm quyền, trình tự, thủ tục đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; nội dung quản lý nhà nước và hành vi bị cấm trong lĩnh vực đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp; vấn đề quản lý, sử dụng vốn, tài sản doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; quyền, trách nhiệm của đại diện đại diện chủ sở hữu nhà nước; quy định về người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp; vấn đề giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp; đánh giá, xếp loại, báo cáo và công khai hoạt động của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Đại diện Bộ Tài chính cho biết, sau khi Luật này được Quốc hội thông qua, Bộ Tài chính đã tiến hành rà soát các nội dung Luật giao quy định chi tiết báo cáo Thủ tướng Chính phủ để giao các cơ quan xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Luật.
Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015.
Luật Giáo dục nghề nghiệp
Luật Giáo dục nghề nghiệp gồm 08 chương, 79 điều được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI), giải quyết những hạn chế, bất cập của Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, tạo tiền đề, động lực cho giáo dục nghề nghiệp phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động trong nước và tham gia thị trường lao động quốc tế.
Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định về: Tổ chức cơ sở giáo dục nghề nghiệp (cơ cấu tổ chức, hội đồng trường, hội đồng quản trị, thành lập đăng ký hoạt động...); chính sách đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp (chính sách chung, chính sách đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho người khuyết tật), tài chính, tài sản của cơ sở giáo dục nghề nghiệp (nguồn tài chính, học phí, cơ sở vật chất, thiết bị...); hoạt động đào tạo và hợp tác quốc tế trong giáo dục nghề nghiệp; quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp của doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo giáo dục nghề nghiệp; quy định về nhà giáo (trình độ chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn chính sách đối với nhà giáo...) và người học (nhiệm vụ, quyền hạn, chính sách đối với người học...); về kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp; vấn đề quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.
Luật Giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015.
Huyền Bùi