1. Lời nói đầu
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản quan trọng của quá trình áp dụng luật hình sự, bởi suy cho cùng, các hoạt động tố tụng hình sự trước đó (từ điều tra, truy tố, kể cả việc tranh tụng tại phiên tòa) sẽ không có ý nghĩa nếu Tòa án không làm tốt việc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền đề, điều kiện để đạt mục đích hình phạt (cải tạo, giáo dục riêng, phòng ngừa chung). Nếu hình phạt quá nhẹ sẽ làm giảm hiệu quả pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bởi nó có thể làm phát sinh ý định phạm tội, thái độ vô trách nhiệm và coi thường pháp luật của người phạm tội. Nhưng hình phạt quá nặng sẽ tạo tâm lý không công bằng, không hợp lý ở người bị kết án dẫn đến thái độ oán hận, không tin tưởng pháp luật.
2. Quy định của điều luật và thực tiễn áp dụng
Quyết định hình phạt là việc cơ quan Tòa án (Hội đồng xét xử) trên cơ sở của Bộ luật Hình sự lựa chọn một hình phạt cụ thể và xác định mức hình phạt trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội.
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự là trường hợp Tòa án có thể áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Theo cấu trúc của các điều luật thì khi một người bị truy tố, xét xử về một tội phạm nào đó được quy định trong Bộ luật Hình sự, thì họ phải chịu mức hình phạt của một trong các hình phạt chính được quy định trong điều luật đó. Tuy nhiên, có không ít những trường hợp người phạm tội được quyết định hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà họ đã bị truy tố.
Theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự) thì: “1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”.
Theo đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự phải đảm bảo các điều kiện cần và đủ. Khi xét đến các điều kiện cần của Điều 54 Bộ luật Hình sự thì Hội đồng xét xử phải căn cứ khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, các văn bản hướng dẫn dưới luật có liên quan để xem xét, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, đồng thời phải đảm bảo các nguyên tắc về quyết định hình phạt liên quan. Như vậy, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật mà người phạm tội bị xét xử.
Thông thường các điều luật trong Bộ luật Hình sự, khung hình phạt của điều luật được sắp xếp theo thứ tự 1, 2, 3… từ nhẹ nhất đến nặng nhất, theo quy định khi có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự trở lên và đủ điều kiện áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, Tòa án chỉ có thể quyết định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 1, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2 hoặc Tòa án chỉ có thể quyết định một hình phạt trong khung hình phạt khoản 2 nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 3. Tuy nhiên, có những điều luật lại được sắp xếp theo thứ tự từ nặng nhất đến nhẹ nhất. Ví dụ: “Tội giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự, khoản 1 có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Nhưng khoản 2 lại có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù. Vậy nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 51 và được áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự sẽ được quyết định hình phạt như thế nào?
Trường hợp điều luật được áp dụng chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là nhẹ nhất của điều luật, Hội đồng xét xử có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Điều luật không quy định cụ thể Tòa án có thể chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn liền kề, nên có cách hiểu là Hội đồng xét xử chỉ có thể quyết định chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn liền kề. Theo tác giả, Tòa án có thể chuyển qua loại hình phạt nhẹ hơn xuống loại hình phạt nhẹ hơn nữa; hình phạt thuộc loại nhẹ hơn không bắt buộc phải được áp dụng đối với loại tội phạm theo khung hình phạt mà bị cáo bị xét xử.
Ví dụ: Bị cáo Nguyễn Văn A bị xét xử về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Bị cáo A có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đủ điều kiện áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử được quyết định mức hình phạt tù dưới 06 tháng hoặc chuyển qua loại hình phạt nhẹ hơn cải tạo không giam giữ hoặc chuyển qua loại hình phạt nhẹ hơn xuống loại hình phạt nhẹ hơn nữa là cảnh cáo, phạt tiền.
Đối với hình phạt tù có thời hạn, Hội đồng xét xử không được quyết định mức hình phạt tù dưới 03 tháng vì theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự mức tối thiểu của loại hình phạt này là 03 tháng; do đó, trong mọi trường hợp khi quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định mức thấp nhất của khung hình phạt là trên 03 tháng tù, thì không được quyết định mức hình phạt tù dưới 03 tháng; nếu mức thấp nhất của khung hình phạt là 03 tháng tù, thì chỉ có thể chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Hình sự, mức tối thiểu của hình phạt này này là 06 tháng, do đó, trong mọi trường hợp khi quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, không được quyết định mức hình phạt cải tạo không giam giữ dưới 06 tháng.
Đối với hình phạt tiền, thì theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Hình sự, mức tối thiểu là 01 triệu đồng; do đó, trong mọi trường hợp khi quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, không được quyết định mức hình phạt tiền dưới 01 triệu đồng. Nếu mức thấp nhất của khung hình phạt là 01 triệu đồng, thì chỉ có thể chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là cảnh cáo.
Khi xét xử cùng một lần một người phạm nhiều tội, nếu tội nào mà người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, thì có thể áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự đối với tội đó, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự.
Trong thực tiễn xét xử, trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng cũng có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, thì việc xem xét để áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự như thế nào?
Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng đồng thời lại có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, lấy số lượng tình tiết giảm nhẹ trừ đi số lượng tình tiết tăng nặng mà còn từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên thì vẫn áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng trong trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng cũng có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì không áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Như vậy, cách hiểu và áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự của các Tòa vẫn chưa thống nhất, trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đồng thời lại có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xem xét tính chất, mức độ lỗi, hậu quả nguy hiểm của hành vi phạm tội không đủ điều kiện áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, nhưng có Tòa vẫn áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo dẫn đến quyết định hình phạt chưa chính xác.
Có những vụ án mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng không thể áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự vì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, không đủ điều kiện áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Có trường hợp Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự đồng thời áp dụng khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự cho người phạm tội được hưởng án treo mặc dù họ bị xét xử ở khung hình phạt có mức án cao dẫn đến quyết định hình phạt không chính xác, chưa đạt được mục đích.
Ví dụ: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 03/6/2018 tại phòng ngủ nhà chị Nguyễn Thị N, thuộc xã Ayun, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai. Trần Văn Th vì ham muốn tình dục, không làm chủ được bản thân. Th đã có hành vi cho cháu Nguyễn Mai T (sinh ngày 25/5/2011) dùng tay và miệng kích thích vào dương vật của Th, Th dùng tay sờ mó vào bộ phận sinh dục của cháu T, nhằm thỏa mãn dục vọng cá nhân. Bản án số 10/2018/HS-ST ngày 29/12/2018 của Tòa án quân sự Khu vực X Quân khu Y xét xử Trần Văn Th phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự và nhận định bị cáo Th phạm tội lần đầu; khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt đến 03 năm tù “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, Th có thêm 2 tình tiết giảm nhẹ “tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả” và “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 146; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54, khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Văn Th 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát quân sự Quân khu Y ra Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS ngày 16/01/2019, nội dung: Kết luận của Bản án hình sự sơ thẩm về tội danh như đã nêu trên để xử phạt bị cáo Trần Văn Th là có căn cứ, tuy nhiên do chưa đánh giá hết tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả nghiêm trọng của vụ án do bị cáo gây ra cũng như thực trạng tình hình bạo lực, xâm hại trẻ em, nhất là xâm hại tình dục có chiều hướng diễn biến phức tạp trong giai đoạn hiện nay, nên Hội đồng xét xử đã áp dụng Điều 54 và Điều 65 là không phù hợp, xử phạt bị cáo Trần Văn Th 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng là quá nhẹ, chưa đảm bảo tính răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
Ngày 12/3/2019, Tòa án quân sự Quân khu Y xét xử phúc thẩm: Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, không áp dụng Điều 54 và Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với Trần Văn Th, sửa hình phạt tù cho hưởng án treo tại Bản án số 10/2018/HS-ST ngày 29/12/2018 của Tòa án quân sự Khu vực X Quân khu Y và tuyên phạt Trần Văn Th 12 tháng tù.
Tác giả cho rằng mặc dù bị cáo Th có 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng vì đối tượng xâm hại của tội phạm là trẻ em, được Nhà nước, xã hội, công dân có trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ. Để bảo vệ danh dự, nhân phẩm, sức khỏe cho trẻ em và ngăn ngừa loại tội phạm này Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ đề nghị Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao chỉ đạo Tòa án, Viện kiểm sát các cấp xử lý nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em. Hành vi phạm tội của bị cáo Th đã xâm phạm đến khách thể rất quan trọng được pháp luật hình sự nước ta bảo vệ, đó là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của con người, của trẻ em, xâm phạm sự phát triển bình thường về sinh lý và thể chất, danh dự, nhân phẩm của trẻ em. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị hại Nguyễn Mai T mới được hơn 07 tuổi, còn là một đứa trẻ đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách; hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ thể hiện sự nguy hiểm cho xã hội mà còn để lại hậu quả nặng nề, gây ảnh hưởng lâu dài đến tâm sinh lý và sự phát triển hồn nhiên của cháu T. Mặt khác, thời gian gần đây, các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em, nhất là xâm hại tình dục trẻ em có chiều hướng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Do vậy, Th không được áp dụng Điều 54 và Điều 65 là phù hợp.
Theo tác giả, để áp dụng đúng Điều 54 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử phải xem xét nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân thân, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, lỗi, hậu quả gây ra và bị cáo phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không có tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự thì không áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự xử án treo đối với trường hợp bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm hoặc đối tượng của tội phạm được xã hội đặc biệt quan tâm, bảo vệ; hành vi phạm tội của bị cáo vi phạm đạo đức bị dư luận xã hội lên án mạnh mẽ, mặc dù người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhưng không áp dụng Điều 54 và Điều 65 Bộ luật Hình sự để xử phạt tù cho hưởng án treo. Ngoài ra, trong trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhưng lại có nhiều tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên, tùy từng trường hợp cụ thể Hội đồng xét xử mới xem xét về việc có áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo hay không, bởi vì tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thể hiện mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt nghiêm khắc hơn trong một khung hình phạt.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Từ những bất cập trong thực tiễn áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất, tác giả có một số đề xuất, kiến nghị như sau:
Thứ nhất, sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự theo hướng “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 của Bộ luật này”, không nhất thiết quy định cứng nhắc ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Thứ hai, để tránh việc lạm dụng áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, đề nghị cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn trong trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhưng lại có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự nên quy định bù trừ, phải có hơn 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì mới áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn áp dụng Điều 54 thì không áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự để xử phạt tù cho hưởng án treo đối với người phạm tội, phạm những tội rất nghiêm trọng có khung hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm hoặc đối tượng của tội phạm được xã hội đặc biệt quan tâm, bảo vệ; hành vi phạm tội của bị cáo vi phạm đạo đức bị dư luận xã hội lên án mạnh mẽ, mặc dù người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhưng không áp dụng Điều 54 và Điều 65 Bộ luật Hình sự để xử phạt tù cho hưởng án treo (như tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Điều 144 Bộ luật Hình sự; tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi tại Điều 146 Bộ luật Hình sự…).
Kết luận: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật, có liên quan chặt chẽ với hoạt động định tội danh của Tòa án. Quyết định hình phạt công minh, có căn cứ và đúng pháp luật mang ý nghĩa chính trị xã hội và ý nghĩa pháp lý rất quan trọng, đó là thực hiện đúng mục đích của hình phạt, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, hỗ trợ đắc lực cho công tác giáo dục, tuyên truyền trong nhân dân có ý thức tôn trọng, chấp hành nghiêm pháp luật, đây là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật.
ThS. Lê Đình Nghĩa
Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5