Thứ sáu 04/07/2025 06:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Áp dụng án lệ của CISG để giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế tại các trung tâm trọng tài thương mại ở Việt Nam

Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước Viên năm 1980 - CISG). Ngày 01/01/2017, Công ước Viên năm 1980 đã bắt đầu có hiệu lực áp dụng chính thức tại Việt Nam. Công ước Viên đã thống nhất hóa và khắc phục được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển

1. Cơ sở để áp dụng án lệ của CISG trong giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế

Bên cạnh áp dụng án lệ do Tòa án nhân dân tối cao ban hành thì trung tâm trọng tài thương mại có thể áp dụng án lệ của CISG để giải quyết các hợp đồng thương mại quốc tế. Theo thống kê của PACE thì số lượng án lệ của CISG là khoảng 3000[2]. Trong số các án lệ có liên quan đến CISG có rất nhiều phán quyết của trọng tài quốc tế. Các vụ kiện của CISG được báo cáo trên hai nguồn chính sau: www.uncitral.org (website chính thức của Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc) và www.cisg.law.pace.edu (website chuyên về CISG - là hệ thống cơ sở dữ liệu của Đại học Pace, Hoa Kỳ - Pace University). Trong số các án lệ của CISG, đã có một án lệ liên quan đến Việt Nam về tranh chấp giữa Công ty thương mại Tây Ninh - Tanico (Việt Nam) và Công ty NG Nam Bee (Singapore), được xét xử tại tòa phúc thẩm - Tòa án nhân dân tối cao TP. Hồ Chí Minh, bản án tuyên ngày 04/5/1996, trong đó, Tòa án Việt Nam đã tham chiếu các Điều 29, Điều 53, Điều 61.3 và 64.1 của CISG[3].

Tuy nhiên, án lệ của CISG chỉ được áp dụng để giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế mà một trong các bên tranh chấp là Việt Nam còn đối với các tranh chấp hợp đồng thương mại tại Việt Nam thì chưa có một quy chế pháp lý nào cho phép áp dụng án lệ của CISG.

Có thể coi CISG và Luật Thương mại Việt Nam là hai nguồn luật độc lập cùng điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế. Theo đó, CISG điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế; Luật Thương mại Việt Nam điều chỉnh cả hợp đồng thương mại quốc tế và trong nước. Nếu Tòa án hoặc Trọng tài thương mại được áp dụng CISG thì mặc nhiên các án lệ của CISG cũng có giá trị áp dụng để giải quyết các hợp đồng thương mại quốc tế mà Việt Nam là một trong các bên tranh chấp.

Theo khoản 1 Điều 1 của CISG: “Công ước này áp dụng cho các hợp đồng thương mại quốc tế giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau:

a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước; hoặc

b. Khi theo các quy phạm tư pháp quốc tế thì luật áp dụng là luật của một quốc gia thành viên của Công ước”.

Theo đó, có hai trường hợp CISG được áp dụng:

- Trường hợp 1: Khi các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia là thành viên của CISG (Điều 1.1.a CISG).

Kể từ thời điểm CISG có hiệu lực áp dụng tại Việt Nam, các hợp đồng thương mại quốc tế được giao kết bởi doanh nghiệp Việt Nam sẽ được điều chỉnh bởi CISG trong trường hợp bên còn lại có trụ sở thương mại tại quốc gia là thành viên của CISG. Tuy nhiên, CISG tôn trọng quyền tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng của các bên[4]. Theo Điều 6 CISG, các bên có thể loại trừ việc áp dụng Công ước. Do vậy, các bên có thể loại trừ việc áp dụng CISG nếu như trong hợp đồng bổ sung một điều khoản chọn luật. Ví dụ, các bên có thể thỏa thuận rõ “CISG năm 1980 không được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng này”.

- Trường hợp 2: Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên CISG (Điều 1.1.b CISG).

Trường hợp này, chỉ cần một trong các bên có trụ sở thương mại tại một nước là thành viên của Công ước hoặc không cần bên nào có trụ sở thương mại tại quốc gia thành viên Công ước, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật, miễn là các quy định của tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến luật của một quốc gia thành viên Công nước. Như vậy, việc có áp dụng Công ước Viên hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên tắc của tư pháp quốc tế. Cụ thể, các quy phạm xung đột sẽ được sử dụng để xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa các bên. Nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật nào thì hệ thống pháp luật đó sẽ được áp dụng. Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của quốc gia thành viên Công ước Viên 1980 thì toàn bộ quy định của Công ước này sẽ được áp dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể[5].

Ngoài ra, còn có hai trường hợp CISG được áp dụng:

- Khi các bên lựa chọn CISG là luật áp dụng cho hợp đồng. Dựa trên nguyên tắc tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế[6], nếu đối tác của doanh nghiệp Việt Nam có trụ sở tại một quốc gia chưa phải là thành viên CISG, các bên trong hợp đồng được phép lựa chọn CISG là luật áp dụng cho hợp đồng.

- Khi cơ quan giải quyết tranh chấp (Tòa án, Trọng tài thương mại) lựa chọn CISG là luật áp dụng cho hợp đồng. Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là Tòa án Việt Nam, Tòa án nước ngoài hoặc trọng tài thương mại Việt Nam, trọng tài nước ngoài. Thẩm phán hay trọng tài viên có thể lựa chọn CISG làm luật áp dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế khi các bên không lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng.

Như vậy, đối với các tranh chấp hợp đồng thương mại ở Việt Nam (không có yếu tố nước ngoài) thì đương nhiên không thể áp dụng các án lệ của CISG cũng không thể được áp dụng để giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại mà chỉ có thể sử dụng các án lệ của CISG để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng thương mại quốc tế mà Việt Nam là một trong các bên tranh chấp.

2. Thực tiễn áp dụng án lệ CISG để giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại các trung tâm trọng tài thương mại ở Việt Nam

Để có thể được giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài chính là ý chí của hai bên trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, nó phải được tồn tại dưới những hình thức nhất định và có thể được hình thành trong những giai đoạn khác nhau của hợp đồng[7]. Dù thỏa thuận trọng tài được xác lập trước hoặc sau khi có tranh chấp đều có giá trị pháp lý như nhau. Nó có thể tồn tại dưới hình thức một, một số điều khoản trong hợp đồng hoặc các bên có thể lập một văn bản riêng, trong đó chỉ có nội dung là thỏa thuận trọng tài. Theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì thỏa thuận trọng tài phải được xác lập bằng văn bản.

Thủ tục tố tụng trọng tài do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài. Nguồn luật áp dụng đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được quy định như sau: (i) Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, áp dụng luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp; (ii) Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, áp dụng luật do các bên lựa chọn; nếu không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất. Trường hợp luật Việt Nam, luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Tại Việt Nam, thực tiễn đã có áp dụng án lệ CISG được ghi nhận tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). Tuy nhiên, án lệ này chỉ trích dẫn văn bản CISG mà không dẫn chiếu tới án lệ nào của CISG. Trong thực tế tham khảo ý kiến của Ban thư ký VIAC cho thấy sự khó khăn trong việc các án lệ CISG để xét xử các tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế là khi Việt Nam chưa gia nhập CISG, thì việc viện dẫn CISG (nếu không có sự thỏa thuận của các bên rằng CISG là luật áp dụng cho hợp đồng) thì sẽ tạo ra nguy cơ bị Tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài do trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam[8].

Trên thực tế thì hệ thống án lệ của CISG đã được Trung tâm Trọng tài thương mại của Việt Nam sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điển hình là án lệ về tranh chấp giữa một công ty Pháp (người mua) và một công ty Italia (người bán). Do hàng hóa người bán không giao phù hợp với hợp đồng, người mua hủy hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại. Hai bên xảy ra tranh chấp về số tiền bồi thường. Tòa Phúc thẩm tại thành phố Rennes (Pháp) đã áp dụng Điều 25, 35, 47, 49,75 và 77 CISG năm 1980 để giải quyết tranh chấp. Thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh tại VIAC đã có cách giải quyết khá tương đồng với CISG. Cụ thể, tranh chấp giữa nguyên đơn Việt Nam (người mua) và bị đơn Hàn Quốc (người bán). Do hàng hóa người bán giao có khuyết tật, không phù hợp với hợp đồng, người mua đòi bồi thường thiệt hại. Hai bên không thỏa thuận được về số tiền bồi thường. Tranh chấp được giải quyết tại VIAC. Nhìn chung cả án lệ của CISG và tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng quốc tế được giải quyết tại VIAC đều là vi phạm cơ bản liên quan đến nội dung hợp đồng (phẩm chất hàng hóa). Người mua yêu cầu người bán khắc phục hậu quả của việc vi phạm hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại.

Khi tính toán các khoản bồi thường, án lệ của CISG và VIAC đều theo nguyên tắc các khoản thiệt hại phải được tính toán, chứng minh một cách hợp lý, khách quan. Các nguyên tắc về đòi bồi thường thiệt hại ghi nhận trong pháp luật Việt Nam (Luật Thương mại năm 2005) và CISG là khá tương thích.

Hiện nay, Việt Nam đã trở thành một thành viên của CISG thì xu hướng viện dẫn và áp dụng án lệ của CISG sẽ trở nên phổ biến tại các trung tâm trọng tài quốc tế ở Việt Nam. Ngay cả khi chưa có nhiều án lệ CISG liên quan đến Việt Nam thì các trọng tài viên cũng có quyền viện dẫn các án lệ CISG của Tòa án và Trọng tài nước ngoài.

Tuy nhiên, theo tác giả thì thực tiễn áp dụng án lệ của CISG trong quá trình giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế tại trọng tài thương mại cho thấy một số điểm bất cập:

Một là, nhận thức, thái độ và thói quen sử dụng án lệ của các trọng tài viên còn hạn chế. Trong quá trình áp dụng luật để giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế thì luật thực định (bộ luật, luật, văn bản quy phạm pháp luật khác…) vẫn được trọng tài viên ưu tiên sử dụng mà chưa “mặn mà” trong việc áp dụng án lệ và liên hệ với thực tiễn.

Hai là, trọng tài viên gặp rất nhiều khó khăn tìm kiếm và phân tích các án lệ của CISG. Điều này dễ hiểu, với trọng tài viên thì việc tìm hiểu, sử dụng án lệ không hề dễ dàng, yêu cầu nhiều thời gian với những đòi hỏi khó về chuyên môn và kỹ năng. Để sử dụng hiệu quả án lệ, các trọng tài viên cần tìm được câu trả lời cho những câu hỏi lớn như: (i) Tại sao phải sử dụng án lệ; (ii) Tìm án lệ ở đâu; (iii) Sử dụng án lệ gì; (iv) Sử dụng như thế nào? Tuy nhiên, trên thực tế, các trọng tài viên thường “loay hoay” trong việc tìm kiếm câu trả lời một cách hiệu quả.

3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ của CISG tại các trung tâm trọng tài ở Việt Nam

Theo khuyến nghị của Ủy ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), các cơ quan áp dụng pháp luật tại các quốc gia thành viên cần có một hệ thống báo cáo án lệ về Công ước Viên. Hệ thống này sẽ tập hợp và báo cáo các án lệ có liên quan đến Công ước này cho Ban thư ký của UNCITRAL để cơ quan này đưa lên hệ thống cơ sở dữ liệu “CLOUT” (Case Law on UNCITRAL Texts[9]). Do đó, xây dựng và phát triển một danh sách các án lệ tiêu biểu (hay còn gọi là án lệ điển hình) về các vấn đề chính yếu của CISG là hết sức có ý nghĩa đối với hoạt động xét xử của trọng tài thương mại tại Việt Nam. Theo tác giả, việc xây dựng và phát triển các án lệ của CISG ở Việt Nam cần tuân thủ các nguyên tắc như sau:

Thứ nhất, nguyên tắc thiện chí (good faith)

Việc giải thích từng điều khoản CISG phải tuân thủ yêu cầu: “Khi giải thích Công ước này, cần chú trọng đến tính chất quốc tế của nó, đến sự cần thiết phải hỗ trợ cho việc áp dụng thống nhất Công ước và tuân thủ trong thương mại quốc tế”[10]. Điều đó có nghĩa là, các bên tranh chấp hoặc cơ quan giải quyết tranh chấp có quyền tự giải thích quy định của CISG, tuy nhiên cần lưu ý đến tính chất quốc tế và đảm bảo CISG được áp dụng một cách thống nhất.

Thứ hai, bổ sung cho “khoảng trống” pháp lý của CISG (gap filling)

CISG không quy định chi tiết mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại quốc tế. Vì vậy, những vấn đề này cần được giải thích theo quy định tại Điều 7.2 CISG như sau: Các vấn đề liên quan đến đối tượng điều chỉnh của Công ước này mà không quy định cụ thể trong Công ước, thì sẽ được giải quyết theo các nguyên tắc chung mà từ đó Công ước được hình thành, hoặc nếu không có các nguyên tắc này, thì căn cứ theo luật áp dụng được lựa chọn theo quy tắc của tư pháp quốc tế.

Thứ ba, căn cứ vào tập quán thương mại quốc tế (usage and practices)

Điều 9.1 CISG quy định: “Các bên bị ràng buộc bởi tập quán mà họ đã thỏa thuận và bởi các thực tiễn giao dịch đã được họ tự thiết lập”. Do đó, việc giải thích để áp dụng CISG cũng cần căn cứ vào tập quán thương mại quốc tế. Tuy nhiên, CISG yêu cầu các tập quán được sử dụng phải có tính chất phổ biến trong thương mại quốc tế và được các bên áp dụng một cách thường xuyên đối với hợp đồng cùng chủng loại trong lĩnh vực buôn bán liên quan để điều chỉnh hợp đồng của mình hoặc điều chỉnh việc ký kết hợp đồng đó[11]. Thực tế, các tập quán thương mại quốc tế như INCOTERMS và UCP thường được các trọng tài lựa chọn áp dụng.

Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng án lệ của CISG trong việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại, đòi hỏi các trọng tài viên cần tích cực nâng cao trình độ chuyên môn thông qua khóa tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn từ các trung tâm trọng tài, Câu lạc bộ Luật sư thương mại quốc tế (VBLV), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)… từ đó, hình thành thói quen và kỹ năng để nghiên cứu và vận dụng án lệ CISG trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế. Để nghiên cứu và áp dụng án lệ của CISG, các trọng tài viên có thể tiếp cận nguồn tài liệu về án lệ của CISG từ các trang thông tin điện tử của UNCITRAL hoặc Đại học Pace, Hoa Kỳ - Pace University... Các án lệ được giới thiệu ở những mức độ chi tiết khác nhau và có thể tra cứu theo nhiều cách như theo điều khoản của CISG, theo tên vụ tranh chấp, theo quốc gia[12].

ThS. Trịnh Tuấn Anh
Trường Đại học Kiến Trúc Đà Nẵng, Hòa giải viên Trung tâm Trọng tài thương mại phía Nam (STAC)
ThS. Nguyễn Thị Hoài Thương
Trường Đại học Sư Phạm, Đại học Đà Nẵng
ThS. Lê Thị Thoa
Viện kiểm sát nhân dân tối cao


[1] Nguyễn Thị Mai (2014), “Công ước Viên năm 1980 (CISG) về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

[2]Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), “Án lệ của CISG trong thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học.

[3] Xem: Án lệ số 74/VPPT ngày 04/5/1996 truy cập ngày truy cập ngày 22/12/2020.

[4]Nông Quốc Bình (2011), Sự mềm dẻo trong một số điều khoản của Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Luật học, Số 4/2011, tr. 18 - 23.

[5] Nông Quốc Bình (2011), Phạm vi áp dụng và không áp dụng của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Luật học, Số 10/2011, tr. 3 - 8.

[6] Bành Quốc Tuấn (2017), “Giáo trình tư pháp quốc tế”, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật.

[7] Tưởng Duy Lượng (2016), Bình luận Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Trọng tài thương mại và thực tiễn xét xử, Nxb. Tư pháp.

[8] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh & VIAC (2015), Hủy phán quyết trọng tài”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học.

[9] James P. Quinn (2005),The Interpretation and Application of the United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods, Int‟l Trade & Bus. L. Rev. 221, 224.

[10] Điều 7.1 CISG 1980.

[11] Điều 9.2 CISG.

[12]Ngô Nguyễn Thảo Vy, Nguyễn Hoàng Thái Hy (2020), “Đọc hiểu CISG qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp tiêu biểu”, Nxb. Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Ngày 10/4/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ” (Đề án).
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm