Thứ bảy 20/12/2025 04:14
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Đảm bảo hiệu lực hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp - Một số kiến nghị từ thực tiễn

Hiện nay, Quốc hội đang giao các cơ quan chức năng tiến hành lập Hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Trong đó, một trong các mục đích của việc sửa đổi, bổ sung lần này là đảm bảo tính hiệu lực trong việc thực hiện các kết luận sau giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp.

Qua thực tiễn quá trình công tác, tác giả nhận thấy để đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp, cần phải có nhiều sửa đổi trong quy định pháp luật cũng như sự thay đổi từ chính hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân, nhất là các đại biểu chuyên trách.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân thì “giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”. Như vậy, theo quy định của Luật này thì kết quả của hoạt động giám sát cần chú trọng vào việc xem xét, đánh giá việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát. Luật cũng quy định về các chủ thể giám sát. Theo đó, giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp, giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào việc giám sát của Hội đồng nhân dân thông qua tổ chức các hoạt động giám sát chuyên đề, vì đây là hoạt động thể hiện rõ nét nhất chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp.

Qua công tác tổng kết thực tiễn 08 năm triển khai thực hiện Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cho thấy, bên cạnh những thành quả đạt được, trên thực tế vẫn có tình trạng Hội đồng nhân dân các cấp còn “lúng túng” trong việc đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của các kiến nghị sau giám sát. Vẫn còn trường hợp đối tượng chịu sự giám sát chưa thực hiện các kiến nghị sau giám sát. Nguyên nhân là do quy định pháp luật chưa quy định trực tiếp hệ quả pháp lý khi đối tượng chịu sự giám sát không thực hiện các kiến nghị sau giám sát mà việc này sẽ được chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, từ góc độ thực tiễn cho thấy thực trạng này cũng xuất phát từ chính chất lượng của hoạt động giám sát do Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện. Do đó, theo tác giả cần thực hiện một số vấn đề có liên quan đến việc tổ chức giám sát chuyên đề có thể trực tiếp nâng chất lượng của hoạt động giám sát, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về lựa chọn nội dung giám sát.

Lựa chọn nội dung giám sát đóng vai trò rất quan trọng để đảm bảo tính hiệu lực của giám sát. Vì sao lại nói như vậy? Trên thực tế, nếu lựa chọn nội dung giám sát mà bản thân đoàn giám sát không có đủ năng lực, điều kiện để giám sát chi tiết thì cuối cùng các kết luận được ban hành đều chỉ mang tính chung chung, khái quát, không thể đề ra các giải pháp, các kiến nghị với đầy đủ chủ thể phải thực hiện trong thời hạn cụ thể, từ đó việc giám sát thực chất không đảm bảo chất lượng.

Để lựa chọn nội dung giám sát phù hợp, ngoài các yếu tố đã được quy định tại Điều 15 Nghị quyết số 594/NQ-UBTVQH15 ngày 12/9/2022 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì đoàn giám sát còn cần phải cân nhắc những yếu tố khác đó là:

(i) Nếu lựa chọn nội dung giám sát đó, đoàn giám sát có điều kiện tiếp cận được những tài liệu gì? Việc này cần đảm bảo không chỉ tuân theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân mà còn cần theo các luật khác, nhất là những quy định liên quan đến các hoạt động tố tụng, bảo vệ bí mật nhà nước...

Ví dụ: Đoàn giám sát có thể chọn nội dung giám sát liên quan đến việc giải quyết tin báo tố giác tội phạm. Tuy nhiên, phải xác định việc trực tiếp xem, kiểm tra, đánh giá đối với hồ sơ giải quyết tin báo tố giác tội phạm cụ thể khi cơ quan chức năng chưa có kết luận chính thức là không được phép vì sẽ can thiệp vào hoạt động của cơ quan tố tụng.

(ii) Nếu lựa chọn nội dung giám sát đó, đại biểu nào trong đoàn sẽ là người chủ lực trong nghiên cứu hồ sơ, liên hệ thực tiễn. Nếu như không đảm bảo có thành viên trong đoàn giám sát nắm vấn đề thì cần cân nhắc chưa lựa chọn nội dung giám sát này hoặc nếu phải tổ chức giám sát ngay theo yêu cầu thực tiễn thì phải cân nhắc mời được các chuyên gia, nhà khoa học, người có chuyên môn tham gia cùng đoàn.

Ví dụ: Cử tri bức xúc đối với một nội dung liên quan đến xem xét báo cáo đánh giá tác động môi trường của một dự án thì cần đảm bảo mời được những chuyên gia về môi trường tham gia cùng đoàn giám sát trước khi tổ chức giám sát.

(iii) Trên cơ sở nghiên cứu sơ bộ về nội dung dự kiến lựa chọn giám sát, có thể dự đoán được các giải pháp, kiến nghị sẽ thuộc thẩm quyền của trung ương hay của địa phương? Nếu có vấn đề thuộc thẩm quyền trung ương thì sẽ chiếm khoảng bao nhiêu % trong số các kiến nghị. Nếu vấn đề dự kiến được lựa chọn làm nội dung giám sát chủ yếu thuộc thẩm quyền của trung ương thì nên cân nhắc vì các kiến nghị sau giám sát có thể cần một thời gian nhất định mới có thể sớm thay đổi hoặc có thể không thay đổi được.

Ví dụ: Cử tri kiến nghị Hội đồng nhân dân giám sát quy định về việc nhà xây không phép trên đất nông nghiệp phải đập bỏ, tức là phải trả lại hiện trạng ban đầu thì mới được chuyển mục đích sử dụng đất, cử tri cho rằng như vậy sẽ lãng phí tài sản của người dân, có những trường hợp cụ thể người dân rất khó khăn cần được xem xét cho đóng phạt. Tuy nhiên, đây là vấn đề được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực đất đai, xây dựng, nhằm tránh tình trạng “hợp pháp hóa” các sai phạm về xây dựng. Các văn bản này đều thuộc thẩm quyền của các cơ quan trung ương (Quốc hội, Chính phủ, các bộ). Do đó, nếu sau giám sát mà có kiến nghị về mặt thể chế (kiến nghị một số trường hợp các hộ dân khó khăn được giữ lại nhà…) thì sẽ rất khó có thể thực hiện được.

(iv) Thời gian tốt nhất để tổ chức giám sát là khi nào? Kéo dài bao lâu? Kinh phí giám sát có đủ mời chuyên gia tham gia đoàn hay không…

Mặc dù đây là những vấn đề không được đưa vào Luật nhưng đoàn giám sát cần phải xem xét và cân nhắc. Khi một nội dung đáp ứng được các yêu cầu như trên thì khả năng sau khi giám sát đoàn có thể đưa ra được những kiến nghị cụ thể, thuộc thẩm quyền của địa phương và có thể sớm điều chỉnh để khắc phục ngay những bất cập.

Thứ hai, về lựa chọn thành viên đoàn giám sát.

Trong số các đại biểu là thành viên của các Ban, các tổ đại biểu thì sẽ có những đại biểu có chuyên môn và thực tiễn phù hợp với lĩnh vực đoàn giám sát dự kiến giám sát. Do đó, việc bố trí các thành viên có kiến thức, kỹ năng giám sát, chuyên môn giám sát và thời gian để đi cùng đoàn là rất quan trọng. Bởi lẽ nếu đoàn giám sát không có các thành viên đủ kiến thức, kinh nghiệm thì việc đặt các vấn đề khi giám sát trực tiếp sẽ khó khăn. Bên cạnh đó, cần lựa chọn những đại biểu thực sự quan tâm đến nội dung giám sát, vì họ sẽ có nhiều dữ liệu từ thực tiễn hoạt động, từ quá trình tiếp xúc cử tri để đóng góp cho đoàn giám sát.

Ngoài ra, đoàn giám sát còn có thể mời các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà chuyên môn, người làm quản lý và đại diện các đoàn thể, các tổ chức xã hội tham gia cùng đoàn giám sát. Mặc dù họ không là đại biểu nhưng trưởng đoàn có thể cân nhắc, lựa chọn những người có uy tín, người có chuyên môn, hoặc cán bộ lãnh đạo đã về hưu… tham gia cùng đoàn. Họ có thể có nhiều ý kiến thực tiễn và sâu sắc để các thành viên đoàn xem xét.

Thứ ba, đưa ra kiến nghị giám sát.

Kiến nghị sau giám sát phải được phân tách rõ thành 02 mảng: Các kiến nghị về thể chế và các kiến nghị trong tổ chức thực hiện. Theo quan điểm của tác giả, đối với hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp, thì các kiến nghị về thể chế đóng vai trò hết sức quan trọng, thể hiện chiều sâu của hoạt động giám sát, thể hiện vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp, nhất là Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, chủ thể ban hành các chính sách có tính chất đặc thù của địa phương.

Đối với kiến nghị về thể chế, cần xác định rõ thẩm quyền của từng kiến nghị. Riêng đối với các kiến nghị về thể chế thuộc thẩm quyền của địa phương, đoàn giám sát cần mạnh dạn xác định rõ trách nhiệm và thời điểm cần ban hành hoặc là sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp lý tại địa phương mình (như nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh, quy chế phối hợp của các ngành). Nếu đưa ra được kiến nghị này, sẽ góp phần tăng tính hiệu lực của đoàn giám sát. Đồng thời, cũng dễ cho Hội đồng nhân dân các cấp giám sát việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát.

Mặc dù vậy, qua thực tế theo dõi các kết luận sau giám sát của Hội đồng nhân dân các tỉnh, tác giả nhận thấy việc đưa vào kiến nghị về thể chế còn chưa nhiều. Điều này có thể xuất phát từ vấn đề lựa chọn nội dung giám sát chưa sát, dẫn đến không xác định được điểm nghẽn thực sự về pháp lý thuộc thẩm quyền địa phương để có kiến nghị cụ thể.

Đa số các đoàn giám sát đều có nhiều kiến nghị trong tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, nếu kiến nghị không cụ thể thì những đề xuất thường được thể hiện dưới các cụm từ như “tăng cường” “tiếp tục quan tâm” “tập trung”… sẽ giống như phương hướng của đơn vị chịu sự giám sát. Những kiến nghị như vậy sẽ không cụ thể, giảm tính hiệu lực của hoạt động giám sát. Do đó, đoàn giám sát cần đưa ra đối tượng cụ thể cần thực hiện các kiến nghị này và cố gắng lượng hóa các kiến nghị như: Đảm bảo tỷ lệ bao nhiêu %, đảm bảo đạt chỉ tiêu của trung ương, của tỉnh, của ngành…

Ngoài ra, tác giả cho rằng các báo cáo, kết luận của đoàn giám sát ngoài việc gửi đến đối tượng chịu sự giám sát thì còn cần được gửi đến cấp ủy lãnh đạo trực tiếp đối tượng chịu sự giám sát. Từ đó, cấp ủy vừa nắm được kết quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, vừa nắm được thực tiễn việc thực hiện pháp luật tại địa phương cũng như sớm có các chỉ đạo toàn diện để thực hiện các kiến nghị sau giám sát.

Như vậy, với các quyền được pháp luật quy định, đoàn giám sát trên cơ sở tổ chức hiệu quả hoạt động giám sát chuyên đề có thể đưa ra các kiến nghị cụ thể và xác đáng. Hội đồng nhân dân cũng dễ dàng trong việc giám sát việc thực hiện các kiến nghị để báo cáo với Hội đồng nhân dân và Thường trực Hội đồng nhân dân khi cần thiết. Cũng chính từ đây, cơ quan chịu sự giám sát sẽ “tâm phục khẩu phục” trong việc thực hiện các kết luận sau giám sát. Tác giả cho rằng, lúc bấy giờ hoạt động giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân sẽ có tính hiệu lực, hiệu quả mạnh mẽ trên thực tế.

Nguyễn Thị Thanh Mai

Trưởng Ban Pháp chế, Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Công tác xây dựng Đảng trong Đảng bộ Bộ Tư pháp giai đoạn 2015 - 2025: Thành tựu, bài học kinh nghiệm và định hướng đến năm 2030

Công tác xây dựng Đảng trong Đảng bộ Bộ Tư pháp giai đoạn 2015 - 2025: Thành tựu, bài học kinh nghiệm và định hướng đến năm 2030

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu cải cách toàn diện, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng đối với hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp có ý nghĩa chiến lược và cấp thiết.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.

Theo dõi chúng tôi trên: