Thứ năm 10/07/2025 03:52
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu - Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng

Bài viết phân tích quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2022 và đề xuất hoàn thiện pháp luật về nội dung này.

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2006, được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2009, 2019 và 2022 (hợp nhất trong Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH ngày 08/7/2022 của Văn phòng Quốc hội). Luật này quy định quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập thông qua thủ tục đăng ký, theo đó, quyền này “được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”[1]. Nghĩa là, một nhãn hiệu chỉ được bảo hộ nếu đã thực hiện thủ tục đăng ký thành công tại Cục Sở hữu trí tuệ và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Việc đăng ký nhãn hiệu theo nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (first- to- file)[2]. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn tới nguy cơ: (i) Pháp luật bảo hộ nhãn hiệu của các nhà “đầu cơ nhãn hiệu” thay vì việc bảo hộ nhãn hiệu của chủ thể quyền[3]; (ii) Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn để gắn lên sản phẩm nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng… Để hạn chế tình trạng này, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định hành vi “đăng ký nhãn hiệu không trung thực”[4] và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 (Luật năm 2022) đã quy định cụ thể về hành vi “đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu”.

1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký nhãn hiệu không trung thực

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 có đề cập đến trường hợp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu bị hủy do sự không trung thực của người nộp đơn tại khoản 3 Điều 96[5] nhưng không có quy định rõ khái niệm và các tiêu chí xác định thế nào là “đăng ký nhãn hiệu không trung thực”. Có thể hiểu, đăng ký nhãn hiệu không trung thực là hành vi thực hiện việc đăng ký nhãn hiệu với mục đích không phù hợp, có động cơ trục lợi hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.

Trên thực tế, ngày 29/6/2018, Cục Sở hữu trí tuệ ra Quyết định số 2090/QĐ- SHTT hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu Natural Lady do Công ty H (nhà nhập khẩu, đại lý phân phối sản phẩm Natural Lady của Han Fang tại Việt Nam) nộp đơn năm 2017 và đã được cấp văn bằng bảo hộ là chủ sở hữu của nhãn hiệu Natural Lady tại Việt Nam, vì có hành vi không trung thực[6], gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về xuất xứ hàng hóa và ảnh hưởng tới uy tín của Công ty Han Fang.

Trong một giả thuyết khác đặt ra, nếu trường hợp Công ty H không kinh doanh mua bán, phân phối sản phẩm Natural Lady do Công ty Han Fang sản xuất thì không thể căn cứ vào Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 để hủy bỏ văn bằng bảo hộ nhãn hiệu nêu trên. Vì không có quy định cụ thể về hành vi “đăng ký nhãn hiệu không trung thực” nên tình trạng các cá nhân đầu cơ nhãn hiệu như đầu cơ tên miền bằng cách đăng ký số lượng lớn nhãn hiệu đối với các nhãn hiệu nổi tiếng lâu đời của các chủ nhãn hiệu nước ngoài ở nhiều nước trên thế giới[7] (chủ sở hữu đích thực chưa nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam) có thể xảy ra.

Như vậy, quy định về “đăng ký nhãn hiệu không trung thực” trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 không bao trùm hết các trường hợp đầu cơ nhãn hiệu, cạnh tranh không lành mạnh, không trung thực như: Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu nhưng không phải là người thương mại sản phẩm đó mà chỉ có mục đích bán lại; người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn để gắn lên sản phẩm nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng…, do đó, không đủ cơ sở pháp lý để Cục Sở hữu trí tuệ từ chối cấp đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu. Vì vậy, quy định hành vi “đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu” trong Luật năm 2022 được kỳ vọng sẽ giải quyết được những hạn chế trong quy định về hành vi “đăng ký nhãn hiệu không trung thực” trước đây.

2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu

Luật năm 2022 lần đầu tiên đã bổ sung quy định về đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu tại điểm a khoản 1 Điều 96[8] và điểm b khoản 1 Điều 117[9]. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ chối cấp văn bằng bảo hộ hoặc hủy bỏ toàn bộ hiệu lực của văn bằng bảo hộ nhãn hiệu đối với những đơn đăng ký có dụng ý xấu hoặc động cơ không trung thực. Đây cũng là căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ sở hữu nhãn hiệu thực sự. Các chủ sở hữu nhãn hiệu có căn cứ để phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu được đăng ký với dụng ý xấu, đòi lại quyền sở hữu nhãn hiệu một cách hợp pháp, hỗ trợ chủ sở hữu chính đáng tránh bị thiệt hại, phải mua lại nhãn hiệu của chính mình với các chi phí không đáng có, thậm chí phải từ bỏ việc phát triển kinh doanh tại thị trường Việt Nam. Đồng thời, quy định này cũng khắc phục được việc lạm dụng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (first- to- file) cho phép cấp văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn sớm nhất, kể cả khi người đó có dụng ý xấu dẫn đến nạn đầu cơ nhãn hiệu hoặc chiếm đoạt nhãn hiệu.

Mặc dù chưa có quy định cụ thể về khái niệm hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu nhưng Thông tư số 23/2023/TT-BKHCN ngày 30/11/2023 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định chi tiết một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và biện pháp thi hành Nghị định số 65/2023/NĐ-CP ngày 23/8/2023 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ liên quan đến thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp và bảo đảm thông tin sở hữu công nghiệp (Thông tư số 23/2023/TT-BKHCN) đã đưa ra những tiêu chí để xác định hành đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu tại khoản 1 Điều 34. Theo đó, đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu là hành vi thực hiện việc đăng ký để thành chủ sở hữu nhãn hiệu, trong khi nhãn hiệu này đang được người khác sử dụng cho hàng hóa, dịch vụ của họ và người đang sử dụng nhãn hiệu chưa kịp thời thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Việc xác định hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu dựa vào các tiêu chí:

Thứ nhất, về ý thức chủ quan của người nộp đơn, tại thời điểm nộp đơn, người nộp đơn biết hoặc có cơ sở để biết nhãn hiệu mình đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với nhãn hiệu đang được chủ thể khác sử dụng. Thực tiễn đặt ra câu hỏi về việc cần minh chứng như thế nào để xác định người nộp đơn biết hoặc có cơ sở để biết? Pháp luật dân sự, thương mại không có giải thích cụ thể thế nào là người biết hoặc có cơ sở để biết.

Thực tiễn hoạt động kinh doanh thương mại cho thấy, người nộp đơn được coi là biết hoặc có cơ sở để biết nhãn hiệu mình đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với một nhãn hiệu khác nếu:

- Người đó trực tiếp được biết nhãn hiệu mình đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với một nhãn hiệu khác. Trường hợp này thường rơi vào tình huống, người nộp đơn đã có mối quan hệ (đại lý phân phối, hợp tác kinh doanh, đại diện nhập khẩu, xuất khẩu, bên được thuê thiết kế hoặc thuê gia công, người lao động…) với chủ sở hữu thực sự của nhãn hiệu trước thời điểm nộp đơn.

- Bằng nhận thức thông thường, người nộp đơn có thể biết được nhãn hiệu đang được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam hoặc là nhãn hiệu nổi tiếng tại các nước khác cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự.

Thứ hai, về nhãn hiệu đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với một nhãn hiệu đang được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam hoặc là nhãn hiệu nổi tiếng tại các nước khác cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự. Theo Luật năm 2022, “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được bộ phận công chúng có liên quan biết đến rộng rãi trên lãnh thổ Việt Nam”[10], tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể về một nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi, cũng như tiêu chí/điều kiện để một nhãn hiệu được coi là đã sử dụng và thừa nhận rộng rãi.

Trên thực tế, một nhãn hiệu được coi là nhãn hiệu sử dụng và thừa nhận rộng rãi, cần phải có các tiêu chí về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa như: Tình trạng đăng ký bảo hộ nhãn hiệu; thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu tại Việt Nam; số lượng khách hàng đã biết đến nhãn hiệu; số lượng các quốc gia đã bảo hộ nhãn hiệu; doanh thu/lợi nhuận có được từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu; chi phí quảng cáo cho sản phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu; số lượng các quốc gia đã thừa nhận nhãn hiệu là nhãn hiệu nổi tiếng…

Thứ ba, về mục đích của việc đăng ký nhãn hiệu, mục đích là yếu tố chính thể hiện dụng ý xấu khi đăng ký nhãn hiệu của người nộp đơn. Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu nhằm một trong các mục đích sau: (i) Lợi dụng danh tiếng, uy tín của nhãn hiệu đó để thu lợi; (ii) Nhằm mục tiêu bán lại, cấp phép hoặc chuyển giao quyền đăng ký cho người có các nhãn hiệu này (người đang sử dụng các nhãn hiệu này); (iii) Nhằm mục tiêu ngăn chặn khả năng gia nhập thị trường của người có các nhãn hiệu này để hạn chế cạnh tranh; (iv) Các hành vi trái với tập quán thương mại lành mạnh khác.

Mặc dù, quy định pháp luật bảo vệ cho chủ sở hữu đích thực của nhãn hiệu có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tuy nhiên, việc cung cấp các bằng chứng để chứng minh vụ việc là rất khó khăn. Ví dụ, để chứng minh mục đích “bán lại, cấp phép hoặc chuyển giao quyền đăng ký cho người có các nhãn hiệu này”, chủ sở hữu đích thực phải chứng minh được nguồn gốc, quá trình sử dụng nhãn hiệu của mình và chứng minh được chủ thể đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu thực tế không hề sử dụng và cũng không hề có ý định sử dụng nhãn hiệu. Nếu trong trường hợp chủ thể đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đăng ký có thực tế sử dụng nhãn hiệu họ đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu đích thực của nhãn hiệu còn khó khăn hơn rất nhiều; thậm chí là không thể đăng ký được nhãn hiệu mà đúng ra thuộc quyền sở hữu của mình trước (thực tế đã có rất nhiều trường hợp chủ sở hữu có nhãn hiệu sử dụng trước buộc phải thay đổi nhãn hiệu mới vì việc sử dụng này hoàn toàn có rủi ro bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu do chủ sở hữu sử dụng sau nhưng lại đăng ký bảo hộ trước). Ngoài ra, việc chứng minh chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký một nhãn hiệu gần giống hoặc giống hệt nhãn hiệu khác (tức là nhãn hiệu đó không được sử dụng nhưng vẫn cản trở việc sử dụng và/hoặc việc đăng ký nhãn hiệu của bên thứ ba) chỉ là đăng ký nhãn hiệu dự phòng hay là hành vi đăng ký với dụng ý xấu là vấn đề không dễ dàng.

Ngoài việc phải cung cấp minh chứng phục vụ việc giải quyết yêu cầu trên thực tế, chủ sở hữu đích thực của nhãn hiệu còn phải đối mặt với tình trạng thời gian thủ tục hủy bỏ hiệu lực và khởi kiện (nếu có) là rất dài, có thể tính bằng nhiều năm[11]. Thời gian giải quyết vụ việc kéo dài như vậy có thể khiến cho bên đề nghị hủy phải cân nhắc việc thương lượng, nhận chuyển nhượng nhãn hiệu hay đổi sang làm nhãn hiệu mới.

3. Hoàn thiện quy định về đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu

Thứ nhất, nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp tại Cộng hòa Pháp cho thấy, mặc dù trong Bộ luật Sở hữu trí tuệ[12] không có khái niệm hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu nhưng trong phán quyết của Tòa phá án số 18-19.774 về vụ New York Fair & Lovely[13] có lập luận rằng: Bất kỳ nhãn hiệu nào được đăng ký nhằm mục đích gian lận quyền của người khác nhất thiết phải được hiểu là đăng ký với dụng ý xấu. Tòa công lý châu Âu (CJCE) đã chỉ ra một cách đáng chú ý rằng, dụng ý xấu được biểu hiện “nếu tồn tại những chỉ dẫn khách quan phù hợp và nhất quán có xu hướng chứng minh rằng vào ngày nộp đơn đăng ký nhãn hiệu đó, người nộp đơn đã có mục đích hoặc là làm tổn hại đến lợi ích của bên thứ ba theo cách không phù hợp với tập quán trung thực hoặc để có được, thậm chí không nhắm tới một bên thứ ba cụ thể, việc sử dụng độc quyền cho những mục đích khác ngoài những vấn đề liên quan đến chức năng của một nhãn hiệu”[14]. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất bổ sung khái niệm “hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu là hành vi của người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trái với tập quán trung thực làm tổn hại đến lợi ích của bên thứ ba”.

Thứ hai, pháp luật sở hữu trí tuệ nên bổ sung những tiêu chí mang tính định lượng khi xác định hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu. Các tiêu chí xác định hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu quy định tại Điều 34 Thông tư số 23/2023/TT-BKHCN mới chỉ dừng lại ở các tiêu chí định tính, chưa có những thông số nhất định để đo lường. Tác giả đề xuất bổ sung quy định: Chỉ được nộp tối đa đơn đăng ký 10 nhãn hiệu nếu trường hợp đơn đăng ký đối với hàng hóa, dịch vụ mà không trực tiếp khai thác, sử dụng hàng hóa đó.

Ngoài ra, mặc dù có thêm cơ sở pháp lý để bảo hộ quyền của chủ sở hữu đích thực đối với nhãn hiệu nhưng việc chủ sở hữu đích thực phản đối cấp văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hoặc đề nghị hủy bỏ hiệu lực của văn bằng bảo hộ đã được cấp sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức. Do đó, các chủ thể kinh doanh cần chú trọng đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ngay từ sớm để hạn chế những tranh chấp không đáng có./.

TS. Nguyễn Phương Thảo

Khoa Kinh tế và Kinh doanh, Trường Đại học Phenikaa

[1]. Điểm a khoản 3 Điều 6 Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH ngày 08/7/2022 về Luật Sở hữu trí tuệ.

[2]. Khoản 2 Điều 90 Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH ngày 08/7/2022 về Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng hoặc tương tự với nhau hoặc trường hợp có nhiều đơn của cùng một người đăng ký các nhãn hiệu trùng dùng do các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ được cấp cho nhãn hiệu trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ”.

[3]. Người đầu cơ nhãn hiệu sẽ tìm kiếm các nhãn hiệu tiềm năng nhưng chưa được xác lập quyền hoặc chỉ mới đăng ký ở một số quốc gia nhất định, để tranh thủ nộp đơn đăng ký tại nơi mà các nhãn hiệu chưa xác lập quyền để có lợi thế nộp đơn trước hoặc đã được cấp văn bằng bảo hộ. Xem: Nguyễn Thái Hải Lâm (2023), Đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu: tiên hạ thủ vi cường, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn online, nguồn: https://thesaigontimes.vn/dang-ky-nhan-hieu-voi-dung-y-xau-tien-ha-thu-vi-cuong, truy cập ngày 15/5/2024.

[4]. Xem: Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2009, 2019.

[5]. Khoản 3 Điều 96 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định: “Thời hiệu thực hiện quyền yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ là suốt thời hạn bảo hộ; đối với nhãn hiệu thì thời hiệu này là năm năm kể từ ngày cấp văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp văn bằng bảo hộ được cấp do sự không trung thực của người nộp đơn”.

[6]. Cơ sở của Quyết định là căn cứ khoản 2 Điều 87 và khoản 3 Điều 97 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.

[7]. 2022, Quy định mới về nhãn hiệu và chiến lược bảo vệ thương hiệu, https://khcncongthuong.vn/tin-tuc/t17428/quy-dinh-moi-ve-nhan-hieu-va-chien-luoc-bao-ve-thuong-hieu.html.

[8]. Điều 96. Hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ.

[9]. Điều 117. Từ chối cấp văn bằng bảo hộ.

[10]. Xem khoản 20 Điều 4 Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH ngày 08/7/2022 về Luật Sở hữu trí tuệ.

[11]. Theo Quyết định số 2060/QĐ-BKHCN ngày 13/9/2023 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ, thông thường, một vụ hủy bỏ hiệu lực sẽ mất khoảng 6-10 tháng hoặc có thể kéo dài đến một năm/vài năm tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.

[12]. Code de la propriété intellectuelle (Bộ luật Sở hữu trí tuệ) ngày 13/4/1995, được sửa đổi, bổ sung lần gần nhất ngày 01/01/2024, truy cập ngày 25/5/2024: https://www.legifrance.gouv.fr/codes.

[13]. Cass.com.,17/3/2021, no 18-19.774 “New York Fair & Lovely”.

[14]. Phán quyết của Tòa CJCE ngày 29/1/2020 trong vụ án C-371/18, https://curia.europa.eu/juris/document/document.jsf?docid=222824&doclang=fr, truy cập ngày 27/5/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 406), tháng 6/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Những điểm mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2025 góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại

Những điểm mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2025 góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại

Trong nền hành chính quốc gia Việt Nam, đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng trung tâm, giữ vai trò quyết định đến chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước. Mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức đều có ảnh hưởng lớn đến uy tín của nền hành chính quốc gia, không chỉ phản ánh trình độ văn minh, hiện đại của nền hành chính mà còn phản ánh tính ưu việt của thể chế chính trị hiện hành. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên” được coi là mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách của cả hệ thống chính trị, tạo bước đột phá để đưa đất nước ta vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã từ 01/7/2025

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã từ 01/7/2025

Từ ngày 01/7/2025, mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã) chính thức vận hành trên thực tiễn. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã (xã, phường, đặc khu) được tăng cường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu chính trị của nước ta trong tình hình mới.
Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025 - Hành lang pháp lý quan trọng tạo môi trường số an toàn, bảo vệ quyền riêng tư của người dân

Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025 - Hành lang pháp lý quan trọng tạo môi trường số an toàn, bảo vệ quyền riêng tư của người dân

Ngày 26/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ quyền riêng tư của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh dữ liệu cá nhân ngày càng trở nên quan trọng và đang phải đối mặt với nhiều rủi ro bị đánh cắp, xâm phạm trên môi trường số.
Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son