1. Thực trạng đội ngũ cán bộ, giảng viên trẻ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng pháp luật
Pháp luật là phương tiện không thể thiếu đảm bảo cho sự vận hành và tồn tại của xã hội. Tuy nhiên, pháp luật ngày nay không thuần túy là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, mà quan trọng hơn, pháp luật là chuẩn mực cho mọi hành vi trong xã hội. Với tư cách là những “kỹ sư tâm hồn”, giảng viên nói chung và giảng viên trẻ nói riêng là người lái đò, người định hướng tư tưởng góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành nhân cách, rèn luyện hành vi ứng xử cho thế hệ trẻ ngay từ trên ghế nhà trường, tạo nếp sống, hành động “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Thực tiễn cho thấy, giảng viên trẻ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng pháp luật là đội ngũ tiềm năng nên có nhiều thuận lợi, song cũng tồn tại không ít những khó khăn, đòi hỏi cần phải giải quyết hiệu quả, kịp thời, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
1.1. Thuận lợi
Thứ nhất, giảng viên trẻ là lực lượng được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ, nhận thức không ngừng được nâng cao, nhạy bén trong tiếp nhận và tiếp thu mọi vấn đề, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, các cơ sở giáo dục đại học đã vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của mình nhằm phát triển, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên. Hiện nay, tỷ lệ giảng viên có trình độ cao, được đào tạo ở các nước có nền giáo dục pháp luật phát triển ngày càng tăng nhanh. Với năng lực và vị trí của mình, giảng viên là người mang đến cho người học góc nhìn mới về phương pháp và cách thức làm việc hiện đại, khoa học ở các nước trên thế giới.
Thứ hai, giảng viên với nhiệt huyết của tuổi trẻ luôn tích cực, chủ động trong công tác nghiên cứu khoa học. Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ cơ bản của giảng viên, có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau. Nghiên cứu khoa học hiệu quả sẽ giúp giảng viên phát triển tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự làm việc; từ đó, nâng cao chất lượng giảng dạy, đổi mới phương pháp và công tác chuyên môn. Giảng viên trẻ với mong muốn khẳng định mình, đã nỗ lực nghiên cứu, học hỏi phương pháp tiếp cận pháp luật của một số nước tiên tiến với mục đích: Sản phẩm tạo ra phải có giá trị thực tiễn, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế tri thức; đề tài nghiên cứu khoa học gắn kết nhiều với thực tiễn tư pháp, hoạt động nghề nghiệp của các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp; gắn kết nhiều hơn với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật; đặc biệt, bắt đầu xuất hiện các đề tài khoa học nghiên cứu quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
Thứ ba, hoạt động hợp tác quốc tế về nâng cao chất lượng cán bộ giảng viên ở các trường đại học, cao đẳng được thúc đẩy theo chiều sâu, tạo môi trường thuận lợi cho giảng viên trẻ vươn lên tìm kiếm cơ hội phát triển cho mình. Hợp tác quốc tế là cơ hội cho giảng viên trẻ được trao đổi học thuật và nghiên cứu với các trường có uy tín trong khu vực và thế giới. Việc mở rộng hợp tác liên kết khiến số lượng các dự án đào tạo, hội thảo quốc tế và các công trình khoa học có hàm lượng tri thức cao ngày càng tăng nhanh. Yếu tố này mở ra cơ hội lớn cho giảng viên khi tiếp cận luật pháp các nước dưới góc nhìn so sánh và lăng kính đa chiều, từ đó, rút ra kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình dạy và trau dồi, nâng cao kiến thức pháp luật. Đặc biệt, đây cũng là diễn đàn để giảng viên trẻ có điều kiện giới thiệu sản phẩm nghiên cứu khoa học của mình ra quốc tế nhằm học hỏi, tiếp thu ý kiến đóng góp để nâng cao năng lực chuyên môn.
Thứ tư, giảng viên trẻ có nhiều cơ hội để nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nếu ngoại ngữ đóng vai trò then chốt, là chìa khóa để phát triển hội nhập thì tin học chính là công cụ, phương tiện đưa các giảng viên đến cánh cửa hội nhập một cách nhanh nhất. Bên cạnh việc được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, quan trọng hơn là giảng viên trẻ có sự thay đổi về tư duy, tầm nhìn và phương pháp làm việc.
Thứ năm, hầu hết giảng viên trẻ đều có tinh thần cầu tiến cao bởi họ ý thức được nhiệm vụ của mình, luôn cầu thị để có được bài giảng tốt nhất khi đứng lớp. Phát huy tinh thần “học đi đôi với hành”, giảng viên trẻ rất chú trọng vào hoạt động đi thực tế để tích lũy kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn nhằm phục vụ tốt công tác giảng dạy.
Thứ sáu, luôn coi trọng xây dựng đạo đức, lối sống trong cán bộ, giảng viên trẻ. Giảng viên giảng dạy pháp luật là người có cơ hội được tiếp cận với nhiều mặt của đời sống, do vậy, giảng viên nói chung, đặc biệt là giảng viên trẻ, cần phải có phẩm chất chính trị, đạo đức trong sáng, kiến thức toàn diện, lương tâm nghề nghiệp, lối sống và cách ứng xử chuẩn mực để có sức mạnh cảm hóa, thu hút, lôi kéo, định hướng và điều khiển hoạt động học của người học.
Thứ bảy, thuận lợi về hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy. Xã hội phát triển đã giúp cho các cơ sở giáo dục trang bị hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy tương đối đầy đủ, hiện đại với máy chiếu, hệ thống âm thanh, ánh sáng… giúp giảng viên thuận tiện trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy.
Như vậy, có thể thấy rằng, giảng viên trẻ có rất nhiều thuận lợi trong quá trình công tác. Sức trẻ, sự nhiệt tình, khả năng nhạy bén của họ tạo một luồng gió mới cho môi trường nghề luật vốn được xem là khô cứng. Đó là tiền đề để giảng viên trẻ nỗ lực, phát huy hết khả năng, nhiệt huyết của mình trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học, trau dồi đạo đức chuyên môn, phục vụ tốt cho sự phát triển của nền tư pháp nước nhà.
1.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, giảng viên trẻ giảng dạy pháp luật còn gặp không ít những khó khăn, thử thách, cụ thể như:
Thứ nhất, kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, chưa có nhiều sự trải nghiệm, trong khi đó, việc giảng dạy lý luận, đặc biệt là giảng dạy nghề luật như các nghề: Luật sư, công chứng viên, kiểm sát viên, thẩm phán… thì kinh nghiệm thực tiễn là yếu tố quan trọng, mấu chốt tạo nên vị trí, uy tín của giảng viên. Đối với một số lớp đào tạo, bồi dưỡng pháp luật dành cho đối tượng học viên là những cán bộ quản lý, cán bộ nguồn ở các sở, ban, ngành, ở địa phương cấp cơ sở, lớp học là cơ hội để họ được nghe những giảng viên với vốn thực tiễn phong phú truyền đạt kiến thức hoặc họ muốn được đặt câu hỏi liên quan đến các vấn đề thực tế phát sinh trong quá trình công tác tại đơn vị để tham khảo ý kiến tư vấn của các thầy, cô giáo giàu kinh nghiệm. Đây là điều mà rất ít giảng viên trẻ có được.
Thứ hai, giảng viên trẻ còn nhiều hạn chế về kỹ năng sư phạm, chưa thực sự tự tin khi lên lớp vì mang tâm lý tuổi đời, tuổi nghề còn ít. Nếu so với những giảng viên dày dạn kinh nghiệm thì những giảng viên trẻ mặc dù có khả năng tư duy độc lập, nhưng lại chưa có cách tiếp cận vấn đề một cách sâu sắc (cả trong ứng xử, kỹ năng lên lớp, cách xử lý tình huống, dự đoán tình huống phát sinh tại lớp học…).
Thứ ba, trong công tác nghiên cứu khoa học, những giảng viên trẻ vẫn chưa phát huy hết khả năng của mình, ngoài những bài viết mang tính bắt buộc, thường niên thì giảng viên trẻ vẫn chưa thực sự chủ động nghiên cứu, viết bài, làm chủ đề tài khoa học, xuất hiện tình trạng giảng viên “lười hoặc ngại” nghiên cứu khoa học.
Thứ tư, trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh pháp lý của giảng viên trẻ chưa thực sự tốt. Một trong những lợi thế của giảng viên như đã đề cập ở trên là đã được trang bị tiếng Anh cơ bản. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất mà họ gặp phải là chưa hiểu hết được các từ ngữ chuyên ngành pháp lý bằng tiếng Anh. Vì vậy, giảng viên trẻ gặp khó khăn trong việc tiếp cận các vụ việc có yếu tố nước ngoài, tham khảo các tài liệu nước ngoài để nâng cao kiến thức.
Thứ năm, rụt rè, ngại va chạm, ngại thể hiện quan điểm là một trong những rào cản rất lớn đối với những giảng viên trẻ. Giảng viên trẻ thường có những tư duy sáng tạo, đột phá trong quá trình làm việc nhưng lại không dám thể hiện, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của công tác nghiên cứu khoa học, công tác giảng dạy. Bên cạnh đó, thái độ thiếu tôn trọng giảng viên trẻ vẫn còn tồn tại cũng là một vấn đề gây cản trở khiến cho đội ngũ giảng viên trẻ giảm đi nhiệt huyết nghề nghiệp.
Thứ sáu, đời sống vật chất của giảng viên trẻ còn nhiều khó khăn, thu nhập thấp, chưa đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu nên thời gian đầu tư vào chuyên môn, nghiệp vụ bị sao nhãng, dẫn đến mai một tay nghề, ảnh hưởng ít nhiều đến tư tưởng và chất lượng giảng dạy.
Thứ bảy, chưa thực sự có cơ chế chính sách đặc thù cho cán bộ, giảng viên giảng dạy có trình độ chuyên môn cao dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám diễn ra thường xuyên. Thực tiễn, nhiều trường cử cán bộ, giảng viên trẻ đi học tập nâng cao chuyên môn nhưng sau đó họ sẵn sàng trả lại kinh phí hỗ trợ đào tạo để chuyển sang môi trường làm việc có thu nhập hoặc có môi trường học thuật tốt hơn.
Những khó khăn trên mặc dù là trở ngại cho đội ngũ giảng viên trẻ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng pháp luật, song việc cần thiết nhất của từng giảng viên trẻ là tự ý thức được thuận lợi, khó khăn của mình để có thể định ra cho mình cách thức để tận dụng thuận lợi, vượt lên khó khăn nhằm hoàn thành tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng được phân công.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng và phát huy vai trò đội ngũ cán bộ, giảng viên trẻ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng pháp luật
2.1. Về công tác chuyên môn
Mỗi giảng viên trẻ phải tự ý thức nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của mình, chủ động tham gia các lớp bồi dưỡng để cập nhật kiến thức, nội dung mới…
Bên cạnh đó, giảng viên trẻ cũng nên thành lập, tham gia các câu lạc bộ, diễn đàn trao đổi kiến thức, kinh nghiệm giải đáp pháp luật, tình huống thực tế để đưa ra các quan điểm, phương pháp xử lý nhằm rút kinh nghiệm và bài học cho mình; thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo, tọa đàm để chia sẻ, nâng cao phương pháp giảng dạy giữa các thế hệ giảng viên lão thành với giảng viên trẻ, nhằm giúp giảng viên trẻ có thêm kinh nghiệm giảng dạy, nghiên cứu khoa học, kỹ năng sư phạm…
2.2. Về kỹ năng sư phạm
Việc nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên trẻ cần thực hiện nhiều giải pháp khác nhau, trong đó, ưu tiên các giải pháp sau: (i) Giảng viên trẻ chủ động mời những giảng viên có kinh nghiệm đến dự giờ để xin ý kiến đóng góp về kiến thức chuyên môn cũng như phương pháp sư phạm; (ii) Tham gia dự giờ của các giảng viên có uy tín, trình độ chuyên môn cao để vừa tích lũy kinh nghiệm về mặt phương pháp, lại vừa tích lũy kiến thức phục vụ trong công tác giảng dạy; (iii) Không ngừng đổi mới và vận dụng sáng tạo các phương pháp giảng dạy, giúp cho việc giảng dạy những môn học vốn bị cho là khô cứng trở nên mềm mại, linh hoạt.
2.3. Về hoạt động nghiên cứu khoa học
Giảng viên trẻ cần phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học dưới các hình thức như: (i) Có chính sách và quy định bắt buộc đối với giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, giảng viên cao cấp, giảng viên chính tham gia hướng dẫn, bồi dưỡng cho các giảng viên trẻ nghiên cứu khoa học; (ii) Tạo điều kiện cho giảng viên trẻ tham gia nghiên cứu khoa học trong và ngoài đơn vị, nên có những quy định đối với đề tài để thu hút giảng viên trẻ cùng chuyên ngành tham gia nghiên cứu; (iii) Mỗi giảng viên trẻ cần chủ động lập kế hoạch công tác của bản thân, trong đó có kế hoạch nghiên cứu khoa học và kế hoạch giảng dạy; (iv) Khuyến khích giảng viên trẻ tham gia hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật và thực hành nghề luật; có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích việc nghiên cứu, công bố các công trình, bài viết trên các tạp chí chuyên ngành pháp lý ở trong nước và nước ngoài; (v) Khuyến khích giảng viên tham gia dịch thuật các tài liệu chuyên môn để tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, nâng cao năng lực nghề nghiệp.
2.4. Về bồi dưỡng nâng cao tiếng Anh pháp lý
Tiếng Anh pháp lý là chìa khóa vàng mở ra kho tàng tri thức pháp lý của nhân loại, giúp giảng viên trẻ hòa nhập, trao đổi, tiếp cận thông tin, đọc các tài liệu, bài báo khoa học đăng tải trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành để làm dày vốn kiến thức chuyên môn và có góc nhìn đa chiều trên cơ sở so sánh giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước trên thế giới. Cách tốt nhất để giúp giảng viên trẻ nâng cao năng lực ngoại ngữ và tin học đó là tham gia học tập ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Úc… Ngoài ra, giảng viên trẻ có thể theo học các khóa đào tạo tiếng Anh pháp lý do các cơ sở uy tín tổ chức với sự tham gia giảng dạy của các giảng viên nước ngoài hoặc các giảng viên trong nước nhưng đã có kinh nghiệm học tập và làm việc tại nước ngoài. Bên cạnh đó, giảng viên có thể chủ động tham gia các câu lạc bộ tiếng Anh để giao lưu học hỏi, hoặc học tập nâng cao trình độ trên internet…
2.5. Về vấn đề bổ sung kiến thức thực tế
Kiến thức thực tế có vai trò hết sức quan trọng đối với công tác giảng dạy tại các trường đại học và cao đẳng. Kiến thức thực tế không chỉ giúp cho giảng viên có được một tiết giảng lôi cuốn, sinh động và hấp dẫn, mà còn giúp cho học viên rút ngắn được khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế cũng như vận dụng lý thuyết vào thực tiễn ngay trong tiết giảng. Giảng viên trẻ có thể tự mình xin đi thực tế tại văn phòng luật sư, công ty luật; đọc, tìm hiểu, nghiên cứu tình huống thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
2.6. Về tu dưỡng đạo đức, lối sống, phẩm chất chính trị
Bên cạnh việc nâng cao công tác chuyên môn, bản thân mỗi giảng viên trẻ cần luôn trau dồi đạo đức nghề nghiệp, giữ vững phẩm chất chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới.
Hiện nay, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, đội ngũ giảng viên nói chung và đội ngũ giảng viên trẻ nói riêng chịu tác động cả mặt tốt và mặt xấu của nó. Để luôn giữ vai trò là “người ươm mầm tri thức”, xứng đáng với danh hiệu nhà giáo mẫu mực, đội ngũ giảng viên không những phải có chuyên môn vững, mà còn phải luôn tự rèn luyện nhân cách bản thân bằng việc giữ tác phong sư phạm, luôn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
2.7. Về chế độ chính sách đối với giảng viên trẻ
Để thu hút, phát huy và nâng cao hơn nữa vai trò của đội ngũ giảng viên trẻ, cần có chính sách như: Xây dựng và ban hành bảng lương phù hợp với đội ngũ giảng viên, nhất là giảng viên có trình độ cao, học tập ở nước ngoài về; tăng nguồn kinh phí hỗ trợ cho cán bộ, giảng viên đi học nâng cao trình độ, đồng thời đưa ra những ràng buộc cụ thể để thu hút giảng viên sau khi học xong phục vụ cho đơn vị lâu dài…
Có thể thấy, giảng viên trẻ là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ sư phạm. Phần lớn họ đều được đào tạo bài bản, có nhiệt huyết và lòng yêu nghề; nhạy bén và có khả năng tiếp thu nhanh tri thức khoa học, ứng dụng công nghệ hiện đại vào tổ chức quá trình dạy học. Vì vậy, việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trẻ là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng góp phần định hướng và bổ sung kịp thời những mặt còn thiếu để giúp cho đội ngũ giảng viên trẻ sẵn sàng đáp ứng được nhiệm vụ và đòi hỏi của thực tế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng pháp luật, góp phần xây dựng nền tư pháp nước nhà.
Bí thư Chi đoàn Cơ sở Học viện Tư pháp