Chủ nhật 21/12/2025 06:45
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động lập pháp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới nhìn từ kinh nghiệm của Trung Quốc

Tóm tắt: Quốc vụ viện đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội ở Trung Quốc. Qua phân tích kinh nghiệm tham gia định hình hệ thống pháp luật phục vụ cho phát triển của Quốc vụ viện, bài viết rút ra những bài học có giá trị áp dụng cho Việt Nam để tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động lập pháp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Từ khóa: Quốc vụ viện; Nhân đại; Ủy ban Thường vụ Nhân đại.

Abstract: The State Council plays an important role in building a legal system to create a solid foundation for economic and social development in China. Through analyzing the experience in the participation in shaping the legal system to serve developmentof the State Council, the article draws valuable lessons applicable to Vietnam to strengthen the role of the Government in legislative activities to meet the requirements of national development in the new era. Keywords: State Council; National People's Congress; Standing Committee of the National People's Congress.

Đặt vấn đề

Trong bối cảnh thế giới nhiều biến động với cơ hội và thách thức đan xen, yêu cầu phát triển đất nước đặt ra đòi hỏi mới về chất lượng thể chế và hiệu lực quản trị quốc gia. Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động lập pháp trở thành yếu tố then chốt nhằm bảo đảm chính sách, pháp luật vừa phù hợp thực tiễn, vừa đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững. Từ kinh nghiệm cải cách pháp luật của Trung Quốc, bài viết kiến nghị một số giải pháp nâng cao vai trò của Chính phủ trong lập pháp, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

1. Cơ sở chính trị, pháp lý cho Quốc vụ viện tham gia vào hoạt động lập pháp của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc

Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Quốc vụ viện) là cơ quan hành pháp và hành chính nhà nước cao nhất, có nhiệm kỳ trùng với nhiệm kỳ của Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc (Nhân đại). Thủ tướng lãnh đạo công tác của Quốc vụ viện. Quốc vụ viện có 04 Phó Thủ tướng, 05 Ủy viên Quốc vụ viện, Tổng Thư ký và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ[1]. Mỗi bộ hay ủy ban thuộc Quốc vụ viện đều có tổ chức đảng bên trong, đưa ra các quyết định quan trọng cho tổ chức và giám sát các vấn đề về tư tưởng và nhân sự. Trong hầu hết các trường hợp, Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang bộ kiêm nhiệm vai trò là người đứng đầu của tổ chức đảng trong đơn vị mình. Các bộ có thể tác động quyết định đến chính sách thông qua vai trò soạn thảo luật, ban hành quy định và tổ chức thực hiện các mục tiêu phát triển quốc gia[2]. Ngoài các bộ và ủy ban, Quốc vụ viện thành lập các cơ quan trực thuộc, thực hiện các chức năng hành chính - sự nghiệp, nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức[3].

Quốc vụ viện với vai trò cơ quan hành chính cao nhất, trực tiếp nắm bắt thực tiễn đời sống xã hội nên giữ vị trí quan trọng trong giải quyết các vấn đề lớn. Do đó, Quốc vụ viện có trách nhiệm soạn thảo các luật liên quan là điều đương nhiên[4]. Các dự luật do Quốc vụ viện đề xuất thường gắn trực tiếp với chính sách quản lý vĩ mô, các vấn đề kinh tế - xã hội trọng yếu và thực thi pháp luật trên nhiều lĩnh vực. Ảnh hưởng lớn của Quốc vụ viện đối với quy trình lập pháp không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của phát triển kinh tế và quản trị quốc gia, mà còn từ việc Đảng cầm quyền coi trọng chế độ hành chính trong thời gian dài. Hiện, Quốc vụ viện giữ vai trò chủ đạo trong việc khởi xướng sáng kiến lập pháp và soạn thảo phần lớn các dự luật được Nhân đại và Ủy ban Thường vụ thông qua. Nếu Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định nhiều văn bản luật quan trọng, thì Quốc vụ viện chịu trách nhiệm chính trong việc hoạch định chính sách quốc gia và soạn thảo đa số dự luật. Thực tế, Nhân đại chủ yếu thực hiện chức năng phê chuẩn chương trình nghị sự, bởi các dự luật trình ra thảo luận đã qua nhiều vòng xem xét, chỉnh sửa tại Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc vụ viện và các bộ, ủy ban trực thuộc. Quá trình này khiến Nhân đại không còn nhiều không gian để tác động đáng kể đến nội dung dự luật, mà chủ yếu thực hiện việc phê chuẩn những quyết định đã được định hình từ trước[5].

Khoản 2 và khoản 4 Điều 89 Hiến pháp năm 1982 của Trung Quốc trao cho Quốc vụ viện quyền trình dự luật lên Nhân đại và Ủy ban Thường vụ Nhân đại; thực hiện các chức năng và quyền hạn khác được giao bởi Nhân đại hoặc và Ủy ban Thường vụ Nhân đại. Điều 29 Luật Lập pháp năm 2023 của Trung Quốc quy định: “Quốc vụ viện, Quân ủy Trung ương, Ủy ban giám sát nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các ủy ban chuyên trách khác nhau của Nhân đại có thể trình dự luật lên Ủy ban Thường vụ Nhân đại; Hội đồng Chủ tịch sẽ quyết định đưa dự luật vào chương trình nghị sự của phiên họp Ủy ban Thường vụ Nhân đại hoặc trước tiên có thể chuyển đến các ủy ban chuyên trách có liên quan để thảo luận và trình báo cáo, sau đó quyết định đưa dự luật vào chương trình nghị sự của phiên họp Ủy ban Thường vụ Nhân đại. Nếu Hội đồng Chủ tịch thấy dự luật có những vấn đề lớn cần nghiên cứu thêm, có thể đề nghị người bảo trợ sửa đổi và hoàn thiện dự luật trước khi trình lên Ủy ban Thường vụ Nhân đại”.

Mặc dù, Nhân đại và Ủy ban Thường vụ Nhân đại là các cơ quan lập pháp chính theo Hiến pháp, Quốc vụ viện là cơ quan có ảnh hưởng sâu rộng đến quy trình lập pháp với hơn 70% luật được Nhân đại và Ủy ban Thường vụ Nhân đại xem xét đều do Quốc vụ viện khởi xướng và soạn thảo[6]. Hơn nữa, việc Nhân đại ủy quyền lập pháp cho Quốc vụ viện đã trở thành xu hướng quan trọng từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách và mở cửa. Việc ủy quyền lập pháp cho thực hiện các vấn đề thuộc thẩm quyền ban hành của Nhân đại hoặc Ủy ban Thường vụ Nhân đại nhưng chưa đủ “chín” để ban hành luật nên Quốc vụ viện trước tiên ban hành văn bản quy định về vấn đề đó, sau đó, Nhân đại hoặc Ủy ban Thường vụ Nhân đại sẽ ban hành luật khi điều kiện thuận lợi. Việc Quốc vụ viện chịu trách nhiệm soạn thảo các dự luật hoặc ủy quyền ban hành văn bản quy định tạm thời khi chưa có luật liên quan là điều rất tự nhiên, phù hợp với thông lệ của nhiều quốc gia trên thế giới[7].

Thẩm quyền linh hoạt của Quốc vụ viện trong xây dựng pháp luật đã dẫn đến thực tế, trong nhiều thập kỷ, tình trạng chậm ban hành các luật có nghĩa là số lượng lớn các quy định hành chính do Quốc vụ viện ban hành đóng vai trò như luật trên thực tế. Bởi vì, các bộ trong Quốc vụ viện thường chỉ có thể đưa các để xuất lập pháp, soạn thảo dự luật và đệ trình lên Nhân đại sau khi tích lũy đủ dữ liệu và thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định về vấn đề lập pháp thông qua việc áp dụng các quy định hành chính của họ, phù hợp với chủ trương của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các luật phải luật hóa các chính sách đã thành công trong thực tế. Chuẩn mực này thực sự đã biến các quy định hành chính thành bước đệm để ban hành các luật chính thức. Thực tế này đã trao cho Quốc vụ viện ảnh hưởng đáng kể trong quy trình lập pháp[8].

2. Vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Quốc vụ viện trong hoạt động lập pháp

Hoạt động lập pháp ở Trung Quốc là quá trình “nhiều giai đoạn, nhiều vũ đài”. Quyền hoạch định chính sách được chia sẻ giữa các tổ chức của Đảng và Chính phủ, mặc dù Đảng vẫn duy trì quyền kiểm soát đối với Quốc vụ viện và Nhân đại thông qua nhân sự chung[9]. Hầu hết các luật bắt đầu từ Quốc vụ viện hoặc các bộ và ủy ban trực thuộc, thông qua Nhân đại hoặc Ủy ban Thường vụ Nhân đại, sau đó, quay trở lại Quốc vụ viện; còn rất ít luật được khởi xướng bởi Nhân đại hoặc Ủy ban Thường vụ Nhân đại. Điều này xuất phát từ thực tế, việc soạn thảo hầu hết các chương trình lập pháp vẫn thuộc thẩm quyền của các bộ, ủy ban của Quốc vụ viện, những cơ quan sở hữu nhiều kênh thông tin mạnh mẽ hơn. Các kênh này cung cấp thông tin chi tiết về các dự án luật được các bộ ủng hộ để đưa vào chương trình, do đó, cho phép Quốc vụ viện tự mình tác động hoặc thay đổi các phiên bản do Ủy ban Thường vụ Nhân đại đề xuất[10].

Theo Luật Lập pháp năm 2023 của Trung Quốc, việc xây dựng chương trình lập pháp của Nhân đại không được quy định là thủ tục chính thức của quy trình lập pháp. Do đó, đây có thể được coi là hoạt động thuộc giai đoạn tiền lập pháp. Xây dựng chương trình lập pháp là quá trình tổ chức và định hình có hệ thống các mục tiêu và quy trình lập pháp của các cơ quan nhà nước, dựa trên chức năng, quyền hạn được pháp luật quy định. Bước xây dựng chương trình lập pháp không chỉ là kỳ vọng mà còn là sự sắp xếp để thực hiện trong quá trình lập pháp. Ở Trung Quốc, chương trình lập pháp gồm chương trình lập pháp 05 năm và chương trình lập pháp hằng năm[11].

Phần lớn các dự án luật được đưa vào chương trình lập pháp 05 năm và chương trình lập pháp hằng năm đều đến từ Quốc vụ viện, vì các cơ quan của Quốc vụ viện có đủ quyết tâm và phương thức để đưa các dự án luật của mình vào chương trình lập pháp. Quốc vụ viện là khởi nguồn chính của các dự án luật trong chương trình lập pháp. Đây là cơ quan có nhiều dự án luật được lựa chọn nhất trong chương trình lập pháp. Thông thường, để bảo đảm các đề xuất được chọn cho chương trình lập pháp 05 năm và chương trình lập pháp hằng năm, các cơ quan của Quốc vụ viện sẽ báo cáo trước với các ủy ban đặc biệt của Nhân đại và Ủy ban Thường vụ Nhân đại về tính cấp thiết và cần thiết của các dự án luật. Nếu cần thiết, Quốc vụ viện có thể kêu gọi sự ủng hộ từ lãnh đạo đảng để thúc đẩy đưa dự án luật của mình vào chương trình lập pháp 05 năm và chương trình lập pháp hằng năm[12].

Chính quyền cấp tỉnh và các tổ chức, cá nhân khác như công đoàn, các nhóm nghiên cứu, các học giả và chuyên gia có thể đề xuất xây dựng luật, tuy nhiên, vẫn cần sự ủng hộ từ Quốc vụ viện để chính thức trình các đề xuất đến Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc. Công chức các bộ tiến hành nghiên cứu, thu thập thông tin nhằm xây dựng đề xuất xây dựng luật. Sau đó, các đề xuất được trình lên người đứng đầu các bộ, những người có thể bảo trợ đề xuất hoặc báo cáo Quốc vụ viện để trình lên Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc[13]. Các đề xuất xây dựng luật của Quốc vụ viện và các bộ, ủy ban thuộc Quốc vụ viện chiếm phần lớn trong chương trình lập pháp do các cơ quan này có đủ nguồn lực và ảnh hưởng để thu hút sự chú ý của hệ thống chính trị vào những vấn đề quan trọng. Đội ngũ người làm chính sách lớn của các cơ quan này có thể soạn thảo các đề xuất lập pháp và lưu giữ trong nhiều năm cho đến khi bối cảnh chính trị đã chín muồi để trình những đề xuất lập pháp đó.

Các bộ có trách nhiệm xây dựng đề xuất lập pháp của riêng mình, thường được thực hiện bởi các tổ chức pháp chế trực thuộc[14]. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm về chương trình lập pháp của Quốc vụ viện và điều phối việc thực hiện chương trình của các bộ, ủy ban và các cơ quan khác thuộc Quốc vụ viện. Công việc của Bộ Tư pháp có tầm quan trọng lớn đối với các vấn đề chính sách và kỹ thuật lập pháp[15]. Khi đề xuất xây dựng luật chính thức đệ trình lên Quốc vụ viện, Bộ Tư pháp đưa ra các ưu tiên chính sách của Chính phủ. Những ưu tiên này được trình lên Thường trực Quốc vụ viện để phê duyệt. Quốc vụ viện phê duyệt các ưu tiên chính sách và cho phép thành lập các nhóm soạn thảo cho các luật khác nhau. Khi được phê duyệt, Bộ Tư pháp thông báo cho các cơ quan trung ương có thẩm quyền về dự luật mà họ có trách nhiệm soạn thảo. Các bộ và ủy ban thường có trách nhiệm soạn thảo luật. Bộ Tư pháp tiếp nhận các bản thảo, nghiên cứu, thực hiện các điều chỉnh cần thiết và gửi đến Quốc vụ viện.

Với nguồn lực dồi dào, kiến thức thể chế tập thể do các bộ, ủy ban, cục và nhóm chuyên gia của Quốc vụ viện nắm giữ, định vị Quốc vụ viện là cơ quan soạn thảo luật hành chính và kinh tế chiếm ưu thế tự nhiên, hai lĩnh vực chiếm phần lớn trọng tâm và nhu cầu lập pháp trong xã hội đang thay đổi nhanh chóng của Trung Quốc trong thời đại cải cách. Việc huy động toàn diện các nguồn lực của Chính phủ vào các hoạt động lập pháp cho phép đảng thành công trong việc thiết lập hệ thống pháp luật có chức năng trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Hệ thống này chứng minh được khả năng ban hành luật nhằm giải quyết các lĩnh vực quản lý trước đây không được quản lý. Bộ phận trong Quốc vụ viện chịu trách nhiệm xây dựng chương trình nghị sự lập pháp có các kênh thông tin mạnh mẽ hơn. Các kênh này cung cấp thông tin chi tiết về các dự án nào được các bộ ủng hộ để đưa vào kế hoạch, do đó, có khả năng cho phép Quốc vụ viện tự mình tác động hoặc thay đổi các phiên bản do Ủy ban Thường vụ Nhân đại đề xuất. Vai trò trung tâm của Quốc vụ viện trong việc soạn thảo luật và các quyền lập kế hoạch và xem xét lập pháp quan trọng được chia sẻ với Nhân đại, mang lại cho Quốc vụ viện sự hiện diện rõ rệt trong quá trình lập pháp của Trung Quốc. Năng lực của Quốc vụ viện trong việc ban hành các quy định hành chính để giải quyết các lỗ hổng pháp lý hoặc hoạt động như luật theo sự ủy quyền của Nhân đại củng cố sự thống trị về mặt lập pháp của Hội đồng Nhà nước. Nền tảng của vị trí thống trị của Quốc vụ viện nằm ở các nguồn lực lập pháp rộng lớn và chuyên môn thể chế tích lũy được trong các vấn đề lập pháp[16].

Việc soạn thảo các dự luật chủ yếu được thực hiện tại Ủy ban Công tác Lập pháp của Nhân đại hoặc tại các bộ thuộc Quốc vụ viện[17]. Với mỗi dự luật, một ủy ban soạn thảo, gồm các nhà kỹ trị, các quan chức chính phủ cấp cao và các chuyên gia pháp lý được thành lập. Các dự luật thường có 02 phần, phần nguyên tắc và phần phụ lục. Phần phụ lục gồm chính luật đã soạn thảo và phần nguyên tắc thông tin về luật đó. Thủ tục này có thể mất nhiều năm, vì những thay đổi và đề xuất thay đổi được trả lại cho cơ quan soạn thảo khá phổ biến[18]. Trong giai đoạn soạn thảo, chuyên gia chính sách và kỹ thuật chịu trách nhiệm xây dựng dự thảo, còn tổ chức pháp chế thẩm định tính pháp lý. Tại các phiên họp của bộ, cả hai nhóm đều trình bày quan điểm trước lãnh đạo. Ở cấp cao hơn, Quốc vụ viện nghe Bộ Tư pháp đánh giá chất lượng pháp lý, trong khi các bộ, ủy ban giải thích dự luật dưới góc độ chính sách. Mỗi dự luật do các bộ soạn thảo đều được Bộ Tư pháp xem xét, báo cáo với Quốc vụ viện[19].

3. Thành tựu và hạn chế của Quốc vụ viện trong hoạt động lập pháp

Về mặt thành tựu, kể từ khi Trung Quốc khởi động công cuộc cải cách và mở cửa, Quốc vụ viện đã không ngừng khẳng định vai trò tiên phong trong tiến trình lập pháp của Nhân đại. Với vị thế là cơ quan chủ lực hoạch định chính sách, Quốc vụ viện liên tục dẫn đầu về số lượng các dự án luật được trình, cho thấy tầm ảnh hưởng sâu, rộng và năng lực điều phối chiến lược trong việc xây dựng hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Cụ thể:

Trong nhiệm kỳ Nhân đại khóa XIII (1993 - 1998), số lượng dự án luật do Quốc vụ viện trình là 95; số lượng dự án luật do Ủy ban Thường vụ Nhân đại trình là 49; số lượng dự án luật do các chủ thể khác trình là 20.

Trong nhiệm kỳ Nhân đại khóa IX (1998 - 2003), số lượng dự án luật do Quốc vụ viện trình là 66; số lượng dự án luật do Ủy ban Thường vụ Nhân đại trình là 43; số lượng dự án luật do các chủ thể khác trình là 10.

Trong nhiệm kỳ Nhân đại khóa X (2003 - 2008), số lượng dự án luật do Quốc vụ viện trình là 53; số lượng dự án luật do Ủy ban Thường vụ Nhân đại trình là 42; số lượng dự án luật do các chủ thể khác trình là 04.

Trong nhiệm kỳ Nhân đại khóa XI (2008 - 2013), số lượng dự án luật do Quốc vụ viện trình là 55; số lượng dự án luật do Ủy ban Thường vụ Nhân đại trình là 30; số lượng dự án luật do các chủ thể khác trình là 0.

Trong nhiệm kỳ Nhân đại khóa XII (2013 - 2018), số lượng dự án luật do Quốc vụ viện trình là 63; số lượng dự án luật do Ủy ban Thường vụ Nhân đại trình là 43; số lượng dự án luật do các chủ thể khác trình là 03.

Trong nhiệm kỳ Nhân đại khóa XIII (2018 - 2023), số lượng dự án luật do Quốc vụ viện trình là 84; số lượng dự án luật do Ủy ban Thường vụ Nhân đại trình là 67; số lượng dự án luật do các chủ thể khác trình là 10[20].

Trong giai đoạn thực hiện Chương trình lập pháp 05 năm (2023 - 2028), đến nay, Quốc vụ viện đã trình Ủy ban Thường vụ Nhân đại 53 dự án luật, tập trung vào các lĩnh vực then chốt như kinh tế tư nhân, an ninh lương thực, năng lượng và công nghệ mới, thể hiện định hướng xây dựng pháp luật đáp ứng các ưu tiên phát triển chất lượng cao[21]. Để người dân, doanh nghiệp đóng góp ý kiến cho các dự luật, Quốc vụ viện đã thành lập chuyên trang (zqyj.chinalaw.gov.cn) thường xuyên đăng tải các dự luật để công chúng góp ý.

Một số đạo luật tiêu biểu do Quốc vụ viện chủ trì soạn thảo và trình Nhân đại thông qua trong thời gian gần đây như:

- Luật Đầu tư nước ngoài năm 2019: dự luật được Quốc vụ viện trình lên Ủy ban Thường vụ Nhân đại vào tháng 12/2018[22], được Nhân đại thông qua vào tháng 03/2019 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2020[23]. Đạo luật này, có sự thay đổi đặc biệt, đã đơn giản hóa các quy định về đầu tư nước ngoài, giúp quy trình minh bạch hơn và hướng đến thị trường hơn, đồng thời, bảo đảm sự giám sát của Nhà nước vẫn được duy trì. Bên cạnh đó, tạo môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nước ngoài bằng cách làm rõ các biện pháp bảo vệ pháp lý và giảm các rào cản hành chính[24].

- Luật Cảng thương mại tự do Hải Nam năm 2021: dự luật được Quốc vụ viện trình lên Ủy ban Thường vụ Nhân đại vào tháng 12/2020[25], được thông qua vào tháng 6/2021 và có hiệu lực cùng ngày[26]. Đạo luật được ban hành nhằm xây dựng Cảng thương mại tự do Hải Nam cao cấp mang đặc sắc Trung Quốc, thúc đẩy hình thành mô hình cải cách mở cửa mới ở cấp độ cao hơn, thiết lập hệ thống kinh tế mở mới và thúc đẩy sự phát triển ổn định, lành mạnh và bền vững của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa[27].

- Luật Thuế chuyển nhượng bất động sản năm 2020: dự luật được Quốc vụ viện trình lên Ủy ban Thường vụ Nhân đại vào tháng 12/2019[28], được thông qua vào tháng 8/2020 và có hiệu lực từ ngày 01/9/2021[29]. Đạo luật giữ nguyên khung thuế hiện hành, đồng thời, các quy định tạm thời về thuế chuyển nhượng bất động sản đã được nâng lên thành luật[30].

- Luật Thúc đẩy kinh tế tư nhân năm 2025: dự luật được Quốc vụ viện trình lên Ủy ban Thường vụ Nhân đại vào tháng 12/2024[31], được thông qua vào tháng 04/2025 và có hiệu lực từ ngày 30/5/2025[32]. Đạo luật được xây dựng nhằm mục đích tối ưu hóa môi trường phát triển của kinh tế tư nhân, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức kinh tế, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa trình độ cao, phát huy vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Các dự luật có tính nhạy cảm về chính sách hoặc có mục tiêu chính sách là phân phối lại tài sản trong xã hội có thể bị trì hoãn bất chấp nỗ lực của các cơ quan thuộc Quốc vụ viện trong nhiều năm, điển hình như dự luật thuế bất động sản. Dự luật này được xếp vào loại I (ưu tiên hàng đầu, phải trình trong kỳ họp) bởi cả Ủy ban Thường vụ Nhân đại khóa XII (Chương trình lập pháp năm 2015) và Ủy ban Thường vụ Nhân đại khóa XIII (Chương trình lập pháp năm 2018) với Bộ Tài chính được xác định là cơ quan chủ trì soạn thảo[33]. Chương trình lập pháp 05 năm (2023 - 2028) do Ủy ban Thường vụ Nhân đại khóa XIV ban hành đã bỏ qua Luật Thuế bất động sản và cho đến nay không có dấu hiệu gì cho thấy dự luật sẽ được xem xét thông qua trong nhiệm kỳ này[34].

Về mặt hạn chế, các nhà soạn thảo của Quốc vụ viện thường có động cơ củng cố hoặc mở rộng lợi ích, ảnh hưởng và sự thuận tiện trong hoạt động của bộ, ngành mình thông qua việc soạn thảo luật. Vì hầu hết các luật kinh tế và hành chính đều do cùng một bộ soạn thảo và thực thi, nên việc thiết lập phạm vi thẩm quyền hành chính thông qua các biện pháp pháp lý là điều phổ biến. Các bộ có xu hướng ghi nhận lợi ích của bộ trong luật, đặc biệt, trong trường hợp có tranh chấp hoặc mơ hồ về ranh giới và trách nhiệm chồng chéo giữa các lĩnh vực quản lý của các bộ khác nhau[35].

4. Bối cảnh của Việt Nam hiện nay

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 64/2025/QH15 (sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Luật số 87/2025/QH15) phân định rõ vị trí, vai trò và trách nhiệm của Chính phủ và Quốc hội trong quy trình xây dựng pháp luật. Theo đó, Chính phủ làm đúng vai là cơ quan trình dự án luật và chịu trách nhiệm đến cùng với dự án luật do mình trình; Quốc hội là cơ quan lập pháp, có quyền thông qua hoặc không thông qua dự án luật do Chính phủ trình. Trong thời gian qua, Chính phủ và các thành viên Chính phủ đã chủ động, tích cực, phát huy tinh thần trách nhiệm cao, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả công tác xây dựng pháp luật và đạt nhiều kết quả quan trọng[36].

Trong 06 tháng đầu năm 2025, các bộ, ngành đã trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến đối với 45 dự án luật, dự thảo nghị quyết; đồng thời, xem xét, cho ý kiến với 15 đề nghị xây dựng luật, nghị quyết, trong đó, 13/15 đề nghị đã được bổ sung vào Chương trình lập pháp năm 2025; đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội xem xét thông qua khối lượng nhiệm vụ lập pháp lớn nhất từ đầu nhiệm kỳ đến nay, với 47 dự án luật, dự thảo nghị quyết. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ưu tiên, dành nhiều thời gian thảo luận cho ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại các Phiên họp thường kỳ và Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật. Các bộ, cơ quan ngang bộ đã chủ động rà soát hệ thống pháp luật, tích cực, nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhất là trong công tác hoàn thiện thể chế; chủ động đề xuất, xây dựng, sửa đổi luật, pháp lệnh, nghị quyết thuộc lĩnh vực quản lý; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để bảo đảm chất lượng, tiến độ trình văn bản. Chương trình lập pháp năm 2025 đang được triển khai quyết liệt, bảo đảm yêu cầu về chất lượng và tiến độ, đáp ứng kịp thời yêu cầu xây dựng chính quyền địa phương hai cấp, ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.

Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đặt ra mục tiêu: “Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những “điểm nghẽn” do quy định của pháp luật”. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung, xây dựng các luật để tháo gỡ những vướng mắc, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội là cấp bách, tạo áp lực lớn cho các cơ quan được giao chủ trì soạn thảo các dự án luật, chủ yếu là do các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện. Yêu cầu về tính kịp thời trong giải quyết các vấn đề pháp lý với mức độ khó, phức tạp ngày càng cao; trách nhiệm, rủi ro của người làm công tác xây dựng pháp luật ngày càng lớn[37]. Các bộ, ngành đang triển khai đồng thời nhiều nhiệm vụ lập pháp trọng điểm như thực hiện sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, phân cấp, phân quyền khi tổ chức mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Số lượng dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi tăng nhanh, thời gian thẩm định gấp, công chức làm công tác tham mưu, xây dựng pháp luật phải đáp ứng khối lượng công việc nhiều, áp lực lớn trong thời gian ngắn.

Nếu công tác xây dựng pháp luật đang được triển khai rất gấp và khẩn trương ở Việt Nam thì Trung Quốc từ năm 2011 đã cơ bản thiết lập hệ thống pháp luật vững chắc, bao trùm mọi mặt của các quan hệ xã hội; luật cơ bản và luật chuyên ngành của từng lĩnh vực đã được ban hành; toàn bộ hệ thống pháp luật mang tính khoa học và nhất quán[38]. Hiện, Trung Quốc đã chuyển trọng tâm xây dựng pháp luật từ mở rộng số lượng các luật sang nâng cao chất lượng lập pháp.

5. Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Thứ nhất, coi trọng, chủ động nghiên cứu chiến lược, chính sách, góp phần tăng cường tính dự báo và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật.

Tại Trung Quốc, các viện nghiên cứu và chuyên gia đóng vai trò quan trọng trong thiết lập chương trình lập pháp của Quốc vụ viện, đóng góp thông qua nhiều phương diện, gồm cung cấp chuyên môn, tiến hành nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị về chính sách. Các viện nghiên cứu và chuyên gia có thể tham gia vào các phiên điều trần công khai về các luật được đề xuất. Điều này cho phép tương tác với công chúng và cung cấp chuyên môn của họ về các vấn đề quan trọng[39].

Tại Việt Nam, Chính phủ là cơ quan đảm nhận vai trò kiến tạo chính sách, chủ động đề xuất các quy định pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Điều này đòi hỏi Chính phủ cần chú trọng hơn nữa đến công tác nghiên cứu, đánh giá và dự báo chính sách; tận dụng tri thức từ các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp và xã hội để bảo đảm các dự luật không chỉ phản ánh thực tiễn quản lý mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai. Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực phân tích và dự báo kinh tế - xã hội giúp Chính phủ chủ động xây dựng các chính sách, pháp luật mang tính chiến lược, hỗ trợ đổi mới sáng tạo và thích ứng với sự chuyển đổi kinh tế toàn cầu.

Thứ hai, sớm triển khai dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong xây dựng chính sách và pháp luật.

Đề cương triển khai xây dựng Nhà nước pháp quyền 2021 - 2025 được ban hành bởi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện yêu cầu “kiên trì vận dụng internet, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo” để nâng cao số hóa quy trình quản trị theo pháp luật, trong đó có “xây dựng Chính phủ pháp trị số”. Đây là định hướng tổng thể cho các bộ, ngành đưa công cụ số vào đánh giá tác động, tham vấn và thẩm định hồ sơ trước khi trình Nhân đại[40].

Công cụ trí tuệ nhân tạo hỗ trợ lập pháp đã được nghiên cứu ở Trung Quốc trong hơn một thập kỷ, các nhà nghiên cứu tại Đại học Bắc Kinh đã sử dụng dữ liệu lớn và công nghệ trí tuệ nhân tạo để phát triển một bộ giải pháp lập pháp dựa trên trí tuệ nhân tạo, cung cấp hỗ trợ thông minh trong việc tạo bài viết, thẩm định tính hợp hiến, hợp pháp, thu thập và tóm tắt ý kiến, cũng như điều chỉnh định dạng văn bản. Hiện, Đại học Bắc Kinh có nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp cận và ứng dụng, hợp tác với hơn 70 bộ, ủy ban quốc gia, đại hội đại biểu nhân dân các tỉnh, thành phố, các sở, ban, ngành tư pháp[41].

Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong công tác xây dựng pháp luật, trong đó, trọng tâm là ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo. Đây là xu thế tất yếu trong kỷ nguyên số, là giải pháp chiến lược nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính minh bạch của hoạt động lập pháp.

Kết luận

Quốc vụ viện giữ vai trò then chốt trong quy trình lập pháp của Nhân đại, vừa khởi xướng nhiều dự luật quan trọng, vừa cung cấp nguồn lực chuyên môn cho việc soạn thảo, giải trình và bảo vệ dự luật. Kinh nghiệm này là bài học hữu ích cho Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc để phát huy vai trò của Chính phủ trong lập pháp, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới./.

ThS. Ngô Xuân Kỳ

Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp

[1]. The State Council, https://english.www.gov.cn/archive/chinaabc/201911/22/content_WS5ed77233c6d0b3f0e9499854.html, truy cập ngày 25/6/2025.

[2]. Lawrence, S. V., & Martin, M. F. (2013, March), Understanding China’s political system.

[3]. Trần Thị Thu Hà (2017), Tổ chức bộ máy Chính phủ một số nước và kinh nghiệm Việt Nam có thể tham khảo, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.

[4]. Zhu, J. (2023), Introduction: Fundamental Theories of the Socialist System of Laws with Chinese Characteristics, In: Zhu, J., Meng, T., Peng, H., Feng, H., Liu, X., Peng, X. (eds) China’s Legal System, Understanding China. Springer, Singapore, https://doi.org/10.1007/978-981-19-8994-0_1, truy cập ngày 25/6/2025.

[5]. Tính không chính thức của luật pháp Trung Quốc và chức năng chính trị của nó, http://iolaw. cssn.cn/xspl/200411/t20041110_4593888.shtml, truy cập ngày 25/6/2025.

[6]. Jingjing Liu (2013), Overview of the Chinese Legal System, ELR China Update.

[7]. Jingwen, Zhu. (2014), Lawmaking in china: development, issues and rethinking, Frontiers of Law in China, 9(3), 506 - 523.

[8]. Weihong Zhong (2024), From Decentralization to Consolidation: CCP’s Reshaping of China’s Legislative System in the New Era, George Washington University.

[9]. Truex, R. (2020), Authoritarian gridlock? Understanding delay in the Chinese legislative system, Comparative Political Studies, 53(9), 1455-1492.

[10]. Tính không chính thức của luật pháp Trung Quốc và chức năng chính trị của nó, http://iolaw.cssn.cn/xspl/200411/t20041110_4593888.shtml, truy cập ngày 25/6/2025.

[11]. Zhu, Liyu. (2022), An analysis of the reflection of the whole-process people’s democracy in the legislation of china, Journal of Human Rights, 21(1), 138 - 153.

[12]. Jiang, J. (2023), The Logic of Statute Ambiguity: Bureaucratic Conflict and Lawmaking in China, University of California, San Diego.

[13]. The US-China Business Council (2009), The PRC Legislative Process: Rule Making in China.

[14]. Otto, J. M. (2000), Conclusion: A Comparativist’s Outlook on Law-Making in China, In Law-Making in the People’s Republic of China, pp. 215 - 233.

[15]. Jan Michiel Otto, Yuwen Li (2000), An overview of law-making in China, In Law-Making in the People’s Republic of China, pp. 1 - 17.

[16]. Weihong (David) Zhong (2024), tlđd.

[17]. The US-China Business Council (2009), tlđd.

[18]. Christine Kaufmann, Johannes M. M. Chan (2008), Legislative processes in China, Hong Kong and Switzerland, Seminar Comparative Constitutional Law, Switzerland - Hong Kong - China.

[19]. Otto, J. M. (2000), tlđd.

[20]. Weihong (David) Zhong (2024), tlđd.

[21]. Công tác lập pháp chính xác hơn, thanh tra hành chính chuẩn hóa hơn, phục vụ nhân dân hiệu quả hơn - công tác hành chính tư pháp trong giai đoạn Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 sẽ phục vụ hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội chất lượng cao, https://www.gov.cn/lianbo/bumen/202509/content_7039681.htm, truy cập ngày 25/6/2025.

[22]. China Focus: China mulls unified foreign investment law - Xinhua | English.news.cn. (n.d.), http://www.xinhuanet.com/english/2018-12/23/c_137693889.htm, truy cập ngày 25/02/2025.

[23]. Law of the People’s Republic of China on Foreign Investment. (n.d.), http://en.moj.gov. cn/2021-06/22/c_634956.htm, truy cập ngày 25/6/2025.

[24]. What are the implications of China’s Foreign Investment Law?, https://www.ey.com/en_cn/insights/china-opportunities/what-are-the-implications-of-china-s-foreign-investment-law, truy cập ngày 25/6/2025.

[25]. China writes Hainan Free Trade Port Plan into law (2021, January 6), Caixin Global, https://www.caixinglobal.com/2021-01-06/china-writes-hainan-free-trade-port-plan-into-law-101647000.html, truy cập ngày 25/6/2025.

[26]. Briefing, C. (2021, June 30). Hainan Free Trade Port Law: Building a Law-Based Business Environment. China Briefing News, https://www.china-briefing.com/news/hainan-free-trade-port-law-building-a-law-based-business-environment/, truy cập ngày 25/6/2025.

[27]. Hainan Free Trade Port Law of the People’s Republic of China. (n.d.), http://haikou.customs.gov.cn/haikou_customs/zmgxgzc/3935031/index.html, truy cập ngày 25/6/2025.

[28]. China mulls deed tax law, https://govt.chinadaily.com.cn/s/201912/25/ WS5e02c36b498e1ed196a6b775/china-mulls-deed-tax-law.html, truy cập ngày 25/6/2025.

[29]. Deed Tax Law of China (2020), China Laws Portal - CJO. (n.d.), https://www.chinajusticeobserver. com/law/x/deed-tax-law-20200811, truy cập ngày 25/6/2025.

[30]. The draft deed tax law keeps the current tax burden overall unchanged, https://www.gov.cn/ xinwen/2019-12/23/content_5463333.htm, truy cập ngày 25/6/2025.

[31]. Global, C. (2025, April 25), China writes first legal rulebook to strengthen its vital private sector. ThinkChina - Big Reads, Opinions & Columns on China, https://www.thinkchina.sg/economy/china-writes-first-legal-rulebook-strengthen-its-vital-private-sector, truy cập ngày 25/6/2025.

[32]. Gao, F. (2025, April 30), China passes private economy promotion law. Inside China, https://www.fredgao.com/p/china-passes-private-economy-promotion?open=false#%C2%A7law-of-the-peoples-republic-of-china-on-promoting-the-private-economy, truy cập ngày 25/6/2025.

[33]. Chương trình lập pháp của Ủy ban Thường vụ Nhân đại khóa XII, https://npcobserver.com/wp-content/uploads/2017/08/12th-npcsc-legislative-plan-612015.pdf, truy cập ngày 25/6/2025.

[34]. Wei, C. (2025, August 1), Understanding Chinese Legislature’s new Five-Year legislative plan. NPC Observer, https://npcobserver.com/2023/09/27/china-npc-legislative-plan-2023-2028/, truy cập ngày 25/6/2025.

[35]. Weihong (David) Zhong (2024), tlđd.

[36]. Nghị quyết số 191/NQ-CP ngày 26/6/2025 của Chính phủ về Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 6 năm 2025.

[37]. Nhận diện nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng pháp luật, https://nhandan.vn/special/Nhan-dien-nguyen-nhan-cua-nhung-ton-tai-han-che-trong-cong-tac-xay-dung-phap-luat/index.html, truy cập ngày 25/6/2025.

[38]. Govt. white papers - china.org.cn. (n.d.), http://www.china.org.cn/government/whitepaper/2011-10/27/content_23738846.htm, truy cập ngày 25/6/2025.

[39]. He, P. (2014), Chinese Contemporary Lawmaking: Reality and Problems, In: Chinese Lawmaking: From Non-communicative to Communicative. Understanding China, Springer, Berlin, Heidelberg.

[40]. Đề cương triển khai xây dựng Nhà nước pháp quyền 2021 - 2025, https://www.gov.cn/gongbao/ content/2021/content_5633446.htm, truy cập ngày 25/6/2025.

[41]. Trí tuệ nhân tạo có thể được sử dụng để làm luật, https://www.sohu.com/a/851035132_121123754, truy cập ngày 25/6/2025.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. He, P. (2014), Chinese Contemporary Lawmaking: Reality and Problems, In: Chinese Lawmaking: From Non-communicative to Communicative, Understanding China, Springer, Berlin, Heidelberg.

2. Jan Michiel Otto& Yuwen Li, An overview of law-making in China, In Law Making in the People’s Republic of China.

3. Jiang, J. (2023), The Logic of Statute Ambiguity: Bureaucratic Conflict and Lawmaking in China, University of California, San Diego.

4. Jingjing Liu (2013), Overview of the Chinese Legal System, ELR China Update.

5. Jingwen, Zhu. (2014), Lawmaking in china: development, issues and rethinking, Frontiers of Law in China, 9(3).

6. Lawrence, S. V., & Martin, M. F. (2013), Understanding China’s political system.

7. Otto, J. M. (2000), Conclusion: A Comparativist’s Outlook on Law - Making in China, In Law - Making in the People’s Republic of China.

8. The US - China Business Council (2009), The PRC Legislative Process: Rule Making in China.

9. Trần Thị Thu Hà (2017), Tổ chức bộ máy Chính phủ một số nước và kinh nghiệm Việt Nam có thể tham khảo, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.

10. Truex, R. (2020), Authoritarian gridlock? Understanding delay in the Chinese legislative system, Comparative Political Studies, 53(9).

11. Weihong Zhong (2024), From Decentralization to Consolidation: CCP’s Reshaping of China’s Legislative System in the New Era, George Washington University.

12. Zhu, J. (2023), Introduction: Fundamental Theories of the Socialist System of Laws with Chinese Characteristics, In: Zhu, J., Meng, T., Peng, H., Feng, H., Liu, X., Peng, X. (eds) China’s Legal System, Understanding China, Springer, Singapore, https://doi.org/10.1007/978-981-19 8994-0_1, truy cập ngày 16/02/2015.

13. Zhu, Liyu. (2022), An analysis of the reflection of the whole-process people’s democracy in the legislation of china, Journal of Human Rights, 21(1).

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 1 (438) tháng 10/2025)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo vệ quyền được lãng quên trong tư pháp hình sự - kinh nghiệm của Liên minh châu Âu và kiến nghị đối với Việt Nam

Bảo vệ quyền được lãng quên trong tư pháp hình sự - kinh nghiệm của Liên minh châu Âu và kiến nghị đối với Việt Nam

Tóm tắt: Quyền được lãng quên là một nguyên tắc pháp lý cho phép cá nhân yêu cầu xóa hoặc hạn chế công khai thông tin cá nhân, đặc biệt, trên môi trường số. Trong tư pháp hình sự, quyền này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm và tạo điều kiện tái hòa nhập xã hội cho những người từng bị kết án hoặc bị liên đới trong các vụ án. Bài viết phân tích kinh nghiệm của Liên minh châu Âu, đối chiếu với quy định pháp luật và thực tiễn tại Việt Nam trong việc bảo đảm quyền được lãng quên đối với người bị buộc tội, người bị hại. Trên cơ sở đó, làm rõ những thách thức và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật theo hướng hài hòa giữa bảo vệ quyền riêng tư và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, góp phần nâng cao tính nhân đạo và minh bạch của hệ thống tư pháp hình sự.
Mô hình sandbox thúc đẩy đổi mới công nghệ trong khuôn khổ pháp luật về sở hữu trí tuệ - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam

Mô hình sandbox thúc đẩy đổi mới công nghệ trong khuôn khổ pháp luật về sở hữu trí tuệ - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam

Tóm tắt: Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) ngày càng được quan tâm như một công cụ chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ. Tuy nhiên, việc áp dụng sandbox tại Việt Nam đặt ra nhiều thách thức pháp lý, đặc biệt trong lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các sáng chế, bí mật kinh doanh và các tài sản trí tuệ phát sinh trong giai đoạn thử nghiệm. Bài viết nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và so sánh luật học để: (i) làm rõ khái niệm và đặc trưng của mô hình sandbox; (ii) đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam liên quan đến cơ chế này trong mối quan hệ với pháp luật sở hữu trí tuệ; (iii) đối chiếu với kinh nghiệm lập pháp và thực tiễn triển khai tại Vương quốc Anh, Singapore, Kenya và Hàn Quốc. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù sandbox mang lại nhiều cơ hội cho đổi mới sáng tạo, tuy nhiên, hiện, pháp luật Việt Nam còn thiếu quy định cụ thể để bảo vệ đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường thử nghiệm. Điều này tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp và xung đột lợi ích giữa các chủ thể tham gia. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất xây dựng khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho sandbox, trong đó bảo đảm sự cân bằng giữa khuyến khích đổi mới và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, qua đó, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho phát triển công nghệ bền vững tại Việt Nam.
Rủi ro trong ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào công tác xây dựng pháp luật - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam

Rủi ro trong ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào công tác xây dựng pháp luật - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam

Tóm tắt: Ứng dụng trí tuệ nhân tạo mang lại những lợi ích to lớn, trở thành xu thế tất yếu của nhiều quốc gia, các ngành, lĩnh vực, trong đó có công tác xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, ứng dụng trí tuệ nhân tạo cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro phát sinh. Bài viết phân tích các rủi ro và các hệ quả pháp lý có thể phát sinh khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong xây dựng pháp luật. Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa quản trị rủi ro và trách nhiệm pháp lý, tham chiếu kinh nghiệm của Liên minh châu Âu, Hàn Quốc, bài viết đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam để thiết lập cơ chế kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và xác lập cơ chế trách nhiệm rõ ràng giữa các chủ thể khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong xây dựng pháp luật bảo đảm an toàn, minh bạch, có trách nhiệm.
Điều chỉnh pháp luật về trí tuệ nhân tạo - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam từ sự xuất hiện của ChatGPT

Điều chỉnh pháp luật về trí tuệ nhân tạo - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam từ sự xuất hiện của ChatGPT

Tóm tắt: Sự xuất hiện của ChatGPT như một hiện tượng công nghệ gắn liền với sự phát triển của kinh tế dữ liệu và kinh tế tư nhân. Bài viết nghiên cứu, đánh giá và dự báo những nguy cơ mà ChatGPT có thể gây ra đối với Việt Nam, đặc biệt liên quan đến quản lý dữ liệu, an ninh mạng, phát triển nhân lực số và vận hành hạ tầng công nghệ. Đồng thời, bài viết tham khảo kinh nghiệm pháp luật và quản trị ChatGPT tại một số quốc gia như Cộng hòa Liên bang Đức và Hoa Kỳ, từ đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm xây dựng khuôn khổ quản lý phù hợp cho Việt Nam, vừa thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vừa bảo đảm an toàn và phát triển bền vững.
Hợp đồng vô hiệu do đe dọa kinh tế theo pháp luật Anh và gợi mở cho Việt Nam

Hợp đồng vô hiệu do đe dọa kinh tế theo pháp luật Anh và gợi mở cho Việt Nam

Tóm tắt: Đe dọa kinh tế là học thuyết pháp lý xuất hiện trong pháp luật Anh và được sử dụng để xác định hợp đồng vô hiệu khi một bên bị buộc phải ký kết hợp đồng dưới sự ép buộc về kinh tế một cách bất hợp pháp. Học thuyết này có vai trò trong việc bảo vệ nguyên tắc tự do, tự nguyện trong giao kết hợp đồng. Ở Việt Nam, Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa quy định đe dọa kinh tế là căn cứ để xác định hợp đồng vô hiệu. Điều này tạo ra hạn chế nhất định trong quá trình đàm phán hay giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng. Bài viết nghiên cứu về học thuyết đe dọa kinh tế trong pháp luật Anh thông qua các án lệ điển hình, làm sáng tỏ ba yếu tố cấu thành đe dọa kinh tế và đánh giá hậu quả pháp lý. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số gợi mở để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc tuyên bố hợp đồng có thể vô hiệu bởi đe dọa kinh tế.
Chủ sở hữu hưởng lợi tiếp cận từ nguyên tắc “thực chất hơn hình thức” - Kinh nghiệm một số quốc gia và khuyến nghị đối với Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi tiếp cận từ nguyên tắc “thực chất hơn hình thức” - Kinh nghiệm một số quốc gia và khuyến nghị đối với Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết phân tích chế định chủ sở hữu hưởng lợi trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận từ nguyên tắc pháp lý “thực chất hơn hình thức”. Việc luật hóa khái niệm này là bước tiến quan trọng nhưng nghiên cứu cho thấy, các quy định hiện hành còn tiềm ẩn nguy cơ bị áp dụng mang tính hình thức, làm giảm hiệu quả của chính sách minh bạch hóa thông tin. Thông qua việc phân tích các khoảng trống pháp lý và tham khảo kinh nghiệm của Vương quốc Anh, Úc và Áo, bài viết chỉ ra những thách thức trong việc nhận diện các cơ cấu kiểm soát phức tạp; từ đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề chủ sở hữu hưởng lợi nhằm bảo đảm nguyên tắc “thực chất hơn hình thức” được thực thi hiệu quả trong thực tiễn.
Phương thức xác minh điều kiện thi hành án trong bối cảnh chuyển đổi số dưới góc độ so sánh với pháp luật của Liên minh châu Âu

Phương thức xác minh điều kiện thi hành án trong bối cảnh chuyển đổi số dưới góc độ so sánh với pháp luật của Liên minh châu Âu

Tóm tắt: Tại Việt Nam, việc xác minh điều kiện thi hành án chủ yếu do chấp hành viên thực hiện, tuy nhiên, quá trình này còn gặp nhiều khó khăn do thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan và cơ sở dữ liệu chưa đồng bộ. Trong khi đó, các quốc gia Liên minh châu Âu đã áp dụng các biện pháp đa dạng và sử dụng cơ sở dữ liệu tập trung để hỗ trợ quá trình xác minh nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về xác minh điều kiện thi hành án dân sự trong bối cảnh chuyển đổi số và so sánh với pháp luật của Liên minh châu Âu, từ đó, đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả phương thức xác minh trên thực tế.
Thực thi cam kết về kinh tế tuần hoàn trong hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu

Thực thi cam kết về kinh tế tuần hoàn trong hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu

Tóm tắt: Những năm gần đây, chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn là xu thế tất yếu để các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững. Tầm quan trọng của vấn đề này được nhấn mạnh trong nhiều cam kết quốc tế, đặc biệt là các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) đã thể hiện rõ quyết tâm của các bên trong thúc đẩy phát triển bền vững và kinh tế tuần hoàn. Bài viết nghiên cứu làm rõ các cam kết trong EVFTA liên quan đến kinh tế tuần hoàn, chỉ ra những vấn đề pháp lý ảnh hưởng đến việc thực thi hiệu quả các cam kết, từ đó, đề xuất một số khuyến nghị đối với Việt Nam.
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong mua sắm livestream - Kinh nghiệm của Liên minh châu Âu và một số đề xuất đối với Việt Nam

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong mua sắm livestream - Kinh nghiệm của Liên minh châu Âu và một số đề xuất đối với Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết phân tích và so sánh khung pháp lý điều chỉnh hoạt động mua sắm qua livestream giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, qua đó, chỉ ra một số “khoảng trống” trong pháp luật Việt Nam hiện hành, từ đó, đưa ra một số đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao tiêu chuẩn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam, tiệm cận với thông lệ quốc tế.
Kinh nghiệm xây dựng khung pháp lý điều chỉnh trí tuệ nhân tạo của Úc và giá trị tham khảo đối với Việt Nam

Kinh nghiệm xây dựng khung pháp lý điều chỉnh trí tuệ nhân tạo của Úc và giá trị tham khảo đối với Việt Nam

Tóm tắt: Cũng như nhiều quốc gia khác, Chính phủ Úc đang xây dựng khung pháp lý điều chỉnh trí tuệ nhân tạo (AI) để tạo ra kết quả công bằng, an toàn và đáng tin cậy mà không kìm hãm sự phát triển. Bài viết nghiên cứu, phân tích các phương pháp điều chỉnh trí tuệ nhân tạo được quy định trong pháp luật của Úc và chỉ ra một số thách thức pháp lý, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc trong xây dựng khung pháp lý điều chỉnh AI ở Việt Nam.
Vai trò của quản tài viên khi xử lý hợp đồng đang có hiệu lực trong thủ tục phá sản

Vai trò của quản tài viên khi xử lý hợp đồng đang có hiệu lực trong thủ tục phá sản

Tóm tắt: Trong thủ tục phá sản, quản tài viên giữ vai trò then chốt trong việc bảo đảm giá trị còn lại của doanh nghiệp, hài hòa lợi ích giữa chủ nợ, đối tác và xã hội. Bài viết phân tích cơ sở lý luận về chức năng của pháp luật phá sản và làm rõ quyền hạn của quản tài viên trong việc quyết định tiếp tục hay chấm dứt hợp đồng đang có hiệu lực theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở so sánh với pháp luật Hoa Kỳ và Pháp, nghiên cứu chỉ ra những hạn chế trong quy định hiện hành của Việt Nam và đưa ra khuyến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn, đồng thời, bảo vệ công bằng lợi ích giữa các bên liên quan.
Pháp luật một số quốc gia về thu hồi tài sản tham nhũng không qua kết án và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Pháp luật một số quốc gia về thu hồi tài sản tham nhũng không qua kết án và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tóm tắt: Ở Việt Nam, trong những năm qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng còn khó khăn, hạn chế nhất định. Bài viết nghiên cứu, phân tích pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về thu hồi tài sản tham nhũng không qua kết án; phân tích, đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành; từ đó, đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng không qua kết án tại Việt Nam trong bối cảnh mới.
Trách nhiệm đào tạo nghề của doanh nghiệp nhằm bảo đảm kinh doanh có trách nhiệm - Tiếp cận từ quy định pháp luật quốc tế và Việt Nam

Trách nhiệm đào tạo nghề của doanh nghiệp nhằm bảo đảm kinh doanh có trách nhiệm - Tiếp cận từ quy định pháp luật quốc tế và Việt Nam

Tóm tắt: Việc bảo đảm quyền tiếp cận học nghề, phát triển kỹ năng và thích ứng với chuyển đổi công nghệ không chỉ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động, mà còn phản ánh cam kết của doanh nghiệp trên cơ sở tôn trọng quyền con người và bảo đảm phát triển bền vững. Bài viết tiếp cận từ góc độ so sánh, phân tích chính sách, pháp luật nhằm làm rõ cơ sở lý luận và nội dung trách nhiệm đào tạo nghề của doanh nghiệp trong khuôn khổ kinh doanh có trách nhiệm. Trên nền tảng các chuẩn mực quốc tế của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Liên hợp quốc, bài viết so sánh với quy định pháp luật Việt Nam hiện hành và chỉ ra những bất cập về thiết kế thể chế và hạn chế trong thực thi; từ đó, đề xuất nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với điều kiện của Việt Nam nhằm hoàn thiện pháp luật theo hướng nội luật hóa các cam kết quốc tế, đồng thời, đề xuất tích hợp trách nhiệm đào tạo nghề như một tiêu chí trong các công cụ chính sách phát triển bền vững.
Khung pháp lý về hợp đồng thông minh ở Ý, Ba Lan dưới góc nhìn so sánh và định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam*

Khung pháp lý về hợp đồng thông minh ở Ý, Ba Lan dưới góc nhìn so sánh và định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam*

Tóm tắt: Sự phát triển của các công nghệ mới đã và đang tạo ra những tác động đa dạng đối với hệ thống pháp luật hiện hành. Hợp đồng thông minh là một trong những hình thái của công nghệ mới, đặt ra những vấn đề về khả năng áp dụng các quy phạm truyền thống của pháp luật hợp đồng đối với thỏa thuận được thiết lập thông qua hợp đồng thông minh. Ý và Ba Lan là hai quốc gia có sự khác biệt trong việc ghi nhận giá trị pháp lý và khả năng thực thi đối với hợp đồng thông minh. Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định pháp luật về hợp đồng thông minh của Ý và Ba Lan, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng thông minh.
Mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự của Úc và khuyến nghị cho Việt Nam

Mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự của Úc và khuyến nghị cho Việt Nam

Nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế là một trong những nội dung quan trọng trong việc hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự ở Việt Nam. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự của Úc, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự của Việt Nam trong thời gian tới.

Theo dõi chúng tôi trên: