Các đại biểu tham dự Lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý
Tham dự buổi lễ có đồng chí Uông Chu Lưu - nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đồng chí Hà Hùng Cường - nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đồng chí Lê Thành Long - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đồng chí Phan Chí Hiếu - Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, đồng chí Nguyễn Văn Hiển - Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, đồng chí Nguyễn Khánh Ngọc - Phó Bí thư Ban Cán sự, Thứ trưởng Bộ Tư pháp và đại diện Lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ, các chuyên gia, nhà khoa học cùng tập thể cán bộ, viên chức, người lao động đã và đang công tác tại Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý.
Phát biểu tại buổi Lễ, Viện trưởng Nguyễn Văn Cương xúc động chia sẻ, nhìn lại chặng đường 40 năm qua, trong đó 20 năm đầu Viện mang tên Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, rồi đến 20 năm kế tiếp, Viện mang tên Viện Khoa học pháp lý. Triển khai Nghị định số 98/2022/NĐ-CP ngày 29/11/2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, từ ngày 01/01/2023, Viện chính thức mang tên Viện Chiến lược và khoa học pháp lý, tạo nên thế và lực mới trong hệ thống các viện chiến lược ở Việt Nam. Có thể nói, với 40 năm nỗ lực phấn đấu không ngừng, tập thể Viện đã khẳng định được vai trò, vị thế của mình trong quá trình giúp Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tư pháp, pháp luật, từ cách thể hiện về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các văn kiện của Đảng, tới các nội dung cụ thể trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và gần đây nhất là tham gia xây dựng Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Tại buổi Lễ, thay mặt Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Bộ trưởng Lê Thành Long đã trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhì cho tập thể cán bộ đã và đang công tác của Viện. Bộ trưởng cũng phát biểu ghi nhận, biểu dương những nỗ lực cố gắng của tập thể cán bộ, viên chức Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý, các thế hệ lãnh đạo, cán bộ, viên chức đã và đang công tác tại Viện và tại Ngành Tư pháp trong suốt 40 năm qua. Đồng thời, Bộ trưởng tin rằng, với truyền thống quý báu, bề dày 40 năm phát triển, tập thể viên chức, người lao động Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý sẽ đoàn kết để tiếp tục nỗ lực hơn nữa, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần ngày càng trực diện vào kết quả chung của Bộ, Ngành Tư pháp trong thời gian tới.
Đồng chí Lê Thành Long, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp phát biểu chúc mừng tại buổi lễ
Để có góc nhìn toàn diện về thành tựu 40 năm xây dựng và trưởng thành của Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điểm lại những thành tựu nổi bật của Viện như sau:
1. Hoạt động nghiên cứu khoa học
1.1. Giai đoạn từ năm 1983 đến năm 1992
Giai đoạn từ năm 1983 đến năm 1992 là giai đoạn diễn ra nhiều sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng của đất nước. Những năm 1983 - 1985, đất nước ta đang trong giai đoạn thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đường lối kinh tế do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra. Yêu cầu về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường các cơ quan pháp luật để phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là những vấn đề có tính cấp thiết đặt ra cho Ngành Tư pháp những nhiệm vụ cấp bách trong công tác tổ chức, cải tiến công tác, củng cố và xây dựng Ngành trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực các nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước.
Tháng 12/1986, với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước chính thức bước vào thời kỳ đổi mới với chủ trương “xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp”, “mở rộng giao lưu hàng hóa”, “xóa bỏ tình trạng ngăn sông, cấm chợ”, thực hiện “nền kinh tế có nhiều thành phần”. Trên cơ sở thành tựu của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 6/1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới đất nước, công bố Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đồng thời, chủ trương sửa đổi Hiến pháp năm 1980.
Cũng trong giai đoạn 1983 - 1992, Bộ Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng, trong đó, tập trung vào các nhiệm vụ giúp Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quản lý công tác dự thảo pháp luật, quản lý về mặt tổ chức các Tòa án địa phương, quản lý các công tác tư pháp khác (luật sư, công chứng, giám định tư pháp, lý lịch tư pháp…) và công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, góp phần bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật.
Trong những năm đầu thành lập, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (nay là Viện Chiến lược và khoa học pháp lý) tập trung vào công tác xây dựng định hướng hoạt động, kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ, tham gia vào các công việc chung của Bộ Tư pháp. Từ năm 1985 trở đi, hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp đã được đăng ký trước Ủy ban Khoa học nhà nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) thành các đề tài các cấp. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1985 đến năm 1992, Viện đã chủ trì và tổ chức thực hiện 20 đề tài, trong đó có 03 đề tài cấp Nhà nước và 17 đề tài cấp Bộ gắn với tên tuổi các chuyên gia, nhà khoa học, các vị Lãnh đạo như Nguyễn Văn Yểu, Nguyễn Đình Lộc, Uông Chu Lưu, Nguyễn Văn Thảo, Nguyễn Đức Tuấn, Nguyễn Tất Viễn, Nguyễn Niên, Lê Minh Tâm, Dương Đăng Huệ, Dương Thị Thanh Mai…
Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý Nguyễn Văn Cương trình bày diễn văn khai mạc buổi lễ
Công tác nghiên cứu khoa học trong giai đoạn này (nhất là sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng) diễn ra trong bối cảnh tổng kết Hiến pháp năm 1980 để xây dựng Hiến pháp trong thời kỳ đổi mới (Hiến pháp năm 1992) nên các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu đã làm rõ hơn sự cần thiết phải sửa đổi toàn diện, căn bản Hiến pháp năm 1980; đề xuất các giải pháp hoàn thiện các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp nước ta như: Chuyển chế độ nguyên thủ quốc gia từ chế độ tập thể thành chế độ nguyên thủ một người; Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chuyển thành Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chuyển chế độ thẩm phán bầu thành chế độ bổ nhiệm thẩm phán; phân định phạm vi, ranh giới giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương các cấp; thành lập cơ quan tài phán hành chính giải quyết tranh chấp giữa công dân với cơ quan hành chính... Công tác nghiên cứu trong giai đoạn này cùng với các công trình của các cơ sở nghiên cứu khác đã trực tiếp đặt nền móng đầu tiên, nhận diện những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước pháp quyền, góp phần hình thành các luận cứ cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điển hình là các đề tài: “Những căn cứ khoa học và thực tiễn của việc xây dựng Hiến pháp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” (năm 1990); “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các Tòa án nhân dân” (năm 1990); “Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam” (Đề tài cấp Nhà nước năm 1992); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới: Nhà nước của dân, do dân, vì dân” (Đề tài cấp Nhà nước năm 1992)...
Công tác nghiên cứu khoa học trong giai đoạn này đã góp phần giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong những năm đầu hình thành nên hệ thống pháp luật Việt Nam của thời kỳ đổi mới phục vụ việc chuyển đổi cơ chế kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điển hình là các đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng Bộ luật Dân sự và Tố tụng dân sự” (năm 1990); “Những vấn đề lý luận về xây dựng và thực hiện pháp luật trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ” (năm 1991); “Cơ sở khoa học của việc xây dựng pháp luật về dân sự và kinh doanh” (năm 1991); “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng cơ chế bảo đảm tính hợp hiến của các đạo luật và tính hợp pháp của các văn bản hành chính” (năm 1991); “Hệ thống hóa pháp luật” (năm 1992); “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam” (năm 1992); “Đấu tranh phòng, chống các tội phạm kinh tế trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường” (năm 1992)...
1.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2001
Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2001 là giai đoạn đánh dấu quá trình phát triển và định hình những quan điểm ngày càng rõ nét của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được thể hiện qua các văn kiện của 03 kỳ Đại hội, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và nhiều nghị quyết quan trọng khác của Đảng. Năm 1993 cũng là năm đầu tiên thực hiện Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp của chặng đường đầu của thời kỳ đổi mới. Một sự kiện quan trọng khác trong đời sống chính trị của Nhà nước ta trong giai đoạn này đó là quá trình nghiên cứu, tổng kết và sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001 nhằm thể chế những định hướng, chính sách quan trọng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn. Bối cảnh đặt ra cho Bộ Tư pháp nói riêng và Ngành Tư pháp nói chung những nhiệm vụ nặng nề trên cả 03 lĩnh vực: Xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật, bảo vệ pháp luật với mục tiêu xây dựng Ngành trong sạch, vững mạnh, hiện đại, dân chủ, có bộ máy tổ chức đồng bộ, thống nhất, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả từ trung ương đến địa phương, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý nhà nước thống nhất các lĩnh vực tư pháp...
Trong giai đoạn này, Viện đã tham mưu cho Lãnh đạo Bộ chủ trì, tổ chức triển khai 116 đề tài và nhiệm vụ khoa học trong đó có 04 đề tài cấp Nhà nước độc lập, 78 đề tài khoa học cấp Bộ và 34 đề tài cấp cơ sở gắn với tên tuổi các chuyên gia, nhà khoa học, các vị Lãnh đạo như Nguyễn Đình Lộc, Uông Chu Lưu, Hà Hùng Cường, Hoàng Thế Liên, Nguyễn Ngọc Hiến, Nguyễn Văn Sản, Nguyễn Đức Chính, Lê Thị Thu Ba, Nguyễn Văn Thảo, Nguyễn Đức Tuấn, Nguyễn Tất Viễn, Lê Minh Tâm, Lê Hồng Hạnh, Dương Đăng Huệ, Dương Thị Thanh Mai, Trần Thất, Lê Hồng Sơn, Vũ Đức Long, Tạ Thị Minh Lý, Phạm Quý Tỵ… Hoạt động nghiên cứu khoa học trong giai đoạn này đã huy động đông đảo lực lượng khoa học trong và ngoài Bộ Tư pháp cùng tham gia nghiên cứu.
Các đồng chí Lãnh đạo, nguyên Lãnh đạo tham dự buổi lễ
Những đóng góp từ kết quả nghiên cứu khoa học pháp lý trong giai đoạn này được thể hiện ở các mặt sau đây:
- Các kết quả nghiên cứu đã cung cấp các luận cứ lý luận và thực tiễn góp phần phục vụ sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Trong giai đoạn này, nhiều đề tài, hội thảo được triển khai để theo sát quá trình triển khai Hiến pháp năm 1992, đồng thời, kịp thời đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp năm 1992 (nhất là trong quá trình tổng kết gần 10 năm thi hành Hiến pháp năm 1992). Các đề tài đã đưa ra các luận điểm, kiến nghị về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân; làm rõ nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; đổi mới chế độ hoạt động của Quốc hội theo hướng Quốc hội là cơ quan hoạt động thường xuyên; đề nghị thành lập Ủy ban giám sát tối cao của Quốc hội; làm rõ mối quan hệ giữa trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo tinh thần vận dụng đúng đắn hơn nguyên tắc tập trung dân chủ; phân cấp trách nhiệm và thẩm quyền giữa cơ quan hành chính trung ương và địa phương; chức năng của chính quyền đô thị và chức năng của chính quyền nông thôn... Điển hình là các đề tài: “Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp ở nước ta gắn với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” (đề tài cấp Nhà nước năm 1993); “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện các định chế trong Hiến pháp năm 1992 dựa vào sự phân tích, đánh giá một năm thực hiện” (năm 1993); “Nghiên cứu đánh giá nhu cầu tổng thể, toàn diện về phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam ở tầm trung hạn (dự án từ năm 2001 đến năm 2010)”; “Cơ sơ lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp năm 1992)” (năm 2001)...
- Công tác nghiên cứu khoa học đã góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn xác định định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật (nhất là lĩnh vực pháp luật dân sự, kinh tế) đáp ứng yêu cầu tạo ra hành lang pháp lý cơ bản cho việc thực hiện công cuộc đổi mới mà trọng tâm là đổi mới về kinh tế. Nhiều kiến nghị của các đề tài đã được ứng dụng trong quá trình hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực kinh tế, cải cách thủ tục hành chính như các kiến nghị về Nhà nước quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu thông qua việc quản lý đăng ký kinh doanh, thuế, kiểm toán, xử lý vi phạm bằng tài phán hành chính và tài phán tư pháp; đẩy nhanh việc thể chế hóa thị trường vốn trung hạn, dài hạn, thị trường lao động, chứng khoán, bất động sản; đơn giản hóa thủ tục xin phép đầu tư, đăng ký kinh doanh; xác định rõ những ngành nghề đặc thù phải có giấy phép hành nghề khi đăng ký kinh doanh; giảm bớt chi phí hành chính trong quá trình thành lập và đăng ký kinh doanh... Điển hình là các đề tài: “Luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý nền kinh tế bằng pháp luật” (đề tài cấp Nhà nước năm 1993); “Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế tại Việt Nam và xu thế lựa chọn” (năm 1996); “Cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam” (năm 1998); “Nghiên cứu giải pháp chống xu hướng hình sự hóa các giao dịch dân sự” (năm 1999); “Xây dựng cơ sở khoa học xác định trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường” (năm 2001); “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001)... Đặc biệt, trong giai đoạn này, nhiều đề tài nghiên cứu phục vụ quá trình xây dựng các đạo luật quan trọng của quốc gia do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo đã được tiến hành. Tiêu biểu phải kể tới các đề tài như: “Di sản pháp luật dân sự” (năm 1993); “Căn cứ lý luận của việc phân định thẩm quyền và trình tự ban hành các văn bản quy phạm pháp luật” (năm 1995); “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật Hình sự (sửa đổi)” (năm 1995); “Một số cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới quy trình nâng cao chất lượng xây dựng luật – pháp lệnh” (năm 1995); “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương” (năm 1998)...
- Công tác nghiên cứu khoa học đã dành nguồn lực thỏa đáng cho việc triển khai các đề tài, nhiệm vụ phục vụ công tác xây dựng Ngành Tư pháp theo Hiến pháp năm 1992 và các nghị quyết của Đảng. Với việc nghiên cứu, tổng kết quá trình xây dựng và trưởng thành của Ngành Tư pháp, các công trình nghiên cứu đã hình thành nên các quan điểm, nguyên tắc phát triển Ngành Tư pháp, hình thành mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngành Tư pháp phù hợp với tình hình mới theo hướng bảo đảm hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Kết quả nghiên cứu đã phục vụ cho việc xây dựng các văn bản điều chỉnh tổ chức, hoạt động của Ngành Tư pháp. Điển hình là các đề tài: “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính Ngành Tư pháp” (năm 1995); “Những cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định thừa phát lại” (năm 1995); “Hương ước - Những vấn đề lịch sử và lý luận về quản lý nhà nước đối với việc ban hành hương ước trong giai đoạn hiện nay” (năm 1995); “Xây dựng mô hình quản lý Ngành Tư pháp” (năm 1996); “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý Thẩm phán Tòa án địa phương” (năm 1996); “Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay” (năm 1996); “Lý lịch tư pháp - Thực trạng phương hướng tổ chức, quản lý và hoạt động trong điều kiện mới” (năm 1996); “Tư pháp xã, phường và tổ hòa giải” (năm 1997); “Hoàn thiện chế định Hội thẩm nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp” (năm 1998); “Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra tư pháp” (năm 1998); “Thực trạng và mô hình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn trong giai đoạn hiện nay” (năm 1999); “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng quy chế Thẩm phán” (năm 1999); “Quy chế nghề nghiệp của Luật sư” (năm 1999); “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng phương hướng và chương trình đào tạo cán bộ pháp lý phục vụ nền kinh tế tri thức” (năm 2001); “Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã - Thực trạng, biện pháp củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới” (năm 2001); “Chính sách và chế độ tiền lương đối với cán bộ tư pháp – Thực trạng, yêu cầu và phương hướng đổi mới” (năm 2001); “Pháp chế Bộ, Ngành - Thực trạng và phương hướng đổi mới” (năm 2001); “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện khung pháp luật về tổ chức và hoạt động luật sư trong điều kiện mới” (năm 2001); “Quản lý hành chính tư pháp - Thực trạng, vấn đề và giải pháp” (năm 2001)...
- Việc triển khai nghiên cứu các đề tài phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới đã được thực hiện. Điển hình là các đề tài sau: “Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và pháp luật Việt Nam” (năm 1995); “Một số vấn đề về pháp luật kinh doanh và đầu tư của các nước ASEAN” (năm 1996); “Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN và WTO với việc hoàn thiện pháp luật và hệ thống tư pháp Việt Nam” (năm 1998); “Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng pháp lệnh tương trợ tư pháp” (năm 1998); “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ký kết và thực hiện thương mại, đầu tư quốc tế có yếu tố nước ngoài mà một bên tranh chấp là Nhà nước Việt Nam” (năm 2000)…
1.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013
Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013 là giai đoạn với nhiều sự kiện, hoạt động quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, gắn liền với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011). Trong giai đoạn này, Đảng ta cũng ban hành và tổ chức triển khai Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị), Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị); tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) và xây dựng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 2011). Năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đánh dấu sự hội nhập sâu của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Cũng trong giai đoạn này, Nhà nước ta đã tiến hành tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nhằm xây dựng Hiến pháp mới (Hiến pháp năm 2013) đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Từ năm 2002 đến năm 2013, Viện đã trực tiếp triển khai hoặc tham mưu với Lãnh đạo Bộ Tư pháp để tổ chức triển khai khoảng 150 đề tài, nhiệm vụ khoa học, trong đó có 04 đề tài cấp Nhà nước, gần 100 đề tài cấp Bộ, 40 đề tài cấp cơ sở và các nhiệm vụ khoa học khác. Việc triển khai các đề tài, nhiệm vụ này gắn liền với tên tuổi của các chuyên gia, nhà khoa học, các vị Lãnh đạo như Nguyễn Đình Lộc, Uông Chu Lưu, Hà Hùng Cường, Lê Thành Long, Hoàng Thế Liên, Đinh Trung Tụng, Nguyễn Đức Chính, Phan Chí Hiếu, Dương Thị Thanh Mai, Nguyễn Tất Viễn, Lê Minh Tâm, Lê Hồng Hạnh, Nguyễn Ngọc Hòa, Dương Đăng Huệ, Trần Thất, Lê Hồng Sơn, Hoàng Phước Hiệp, Vũ Đức Long, Phan Hữu Thư, Phạm Văn Lợi, Võ Đình Toàn, Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn Văn Cương, Thái Vĩnh Thắng, Tô Văn Hòa, Đặng Thanh Sơn, Đỗ Hoàng Yến… Việc huy động đông đảo lực lượng khoa học trong và ngoài Bộ Tư pháp cùng tham gia nghiên cứu các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu của Bộ, bao gồm các chuyên gia, nhà nghiên cứu công tác tại Đại học Luật Hà Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Bộ Nội vụ… được tiếp tục mở rộng.
Cùng với các đề tài, nhiệm vụ được triển khai ở giai đoạn trước, các đề tài, nhiệm vụ khoa học đã có những đóng góp cơ bản sau:
Thứ nhất, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ việc xây dựng và tổ chức triển khai các định hướng cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính theo Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính trị, Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 và giai đoạn 2011 - 2020 của Chính phủ.
Điển hình là các đề tài/nhiệm vụ sau: “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” (năm 2002, đề tài cấp Nhà nước); “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp” (năm 2002); “Điều tra cơ bản về tình hình hoạt động của cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân” (dự án năm 2003); “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự - Cơ sở lý luận và thực tiễn” (năm 2003); “Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hành chính tư pháp ở thành phố Hồ Chí Minh” (năm 2005); “Những vấn đề lý luận, thực tiễn của việc xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp và hành chính tư pháp (yêu cầu có thí điểm)” (năm 2005); “Các luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu của Bộ Tư pháp phục vụ cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” (năm 2005); “Cải cách hành chính tư pháp dưới thời Lê (thế kỷ 15 - 17) và bài học kinh nghiệm đặt ra cho Ngành Tư pháp” (2005); “Nhận diện quan điểm hành chính phát triển và việc vận dụng vào điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam và Ngành Tư pháp” (năm 2006); “Thể chế xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay” (năm 2007, đề tài cấp Nhà nước); “Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp” (năm 2009); “Hoàn thiện pháp luật về ban hành quyết định hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước” (năm 2009); “Quan điểm về hệ thống pháp luật trong Nghị quyết số 48-NQ/TW và việc ứng dụng vào hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật” (năm 2011); “Tác động của Hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (năm 2011); “Nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước” (năm 2012); “Cải cách tư pháp – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Nghiên cứu chuyên đề lý luận theo yêu cầu của Hội đồng Lý luận trung ương năm 2013); “Thực trạng công tác thi hành án hình sự, dân sự và hành chính phục vụ chủ trương thống nhất quản lý công tác thi hành án dân sự”; “Tiêu chí đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính” (năm 2013)...
Thứ hai, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ sự tham gia của Bộ Tư pháp và các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp trong quá trình tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng một số nội dung của Hiến pháp năm 2013.
Điển hình là các đề tài sau: “Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện quyền hiến định của công dân về tham gia quản lý nhà nước” (năm 2010); “Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện quyền hiến định của công dân trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) về tham gia quản lý nhà nước” (năm 2010); “Nghiên cứu so sánh Hiến pháp các nước ASEAN” (năm 2010); “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp năm 1992 về Chế độ kinh tế phù hợp tình hình mới” (đề tài nhánh cấp Nhà nước năm 2011); “Mô hình tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp năm 1946 - Những giá trị lịch sử và đương đại” (năm 2011); “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân địa phương (góp phần sửa đổi chế định Hội đồng nhân dân trong Hiến pháp năm 1992)” (năm 2011); “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chế định Chính phủ trong Hiến pháp năm 1992” (năm 2012); “Phân công quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương tại Việt Nam - Lịch sử, lý luận và thực tiễn” (năm 2012)...
Thứ ba, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ việc xây dựng các dự án luật lớn và một số đề án do Bộ Tư pháp chủ trì.
Điển hình là các đề tài/nhiệm vụ: “Pháp luật về hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại: Những điểm tương đồng, khác biệt và giải pháp hoàn thiện” (năm 2003); “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng cơ chế thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước” (năm 2006); “Xây dựng chính sách trong hoạt động lập pháp” (năm 2007); “Phương pháp đánh giá tác động kinh tế - xã hội của một đạo luật” (năm 2007); “Xác định tiêu chí phân loại thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính” (năm 2009); “Nghiên cứu so sánh các cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức” (năm 2010); “Xây dựng cơ chế huy động có hiệu quả sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và nhân dân vào quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật” (thuộc chương trình 909); “Đánh giá tác động của một số chế định cơ bản trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008” (năm 2011); “Mô hình xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (đề tài cấp Nhà nước năm 2011); “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (hợp nhất)” (năm 2012); dự án điều tra cơ bản “Nhu cầu tiếp cận thông tin và các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức” (năm 2010); dự án điều tra cơ bản “Thực trạng thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999 nhằm sửa đổi toàn diện Bộ luật Hình sự năm 1999 trong thời gian tới” (năm 2012); dự án điều tra cơ bản “Thực tiễn thi hành một số chế định của Bộ luật Dân sự năm 2005 phục vụ công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân sự” (năm 2012); “Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong kinh doanh ngân hàng, thực trạng và giải pháp” (năm 2012); “Tổ chức tội phạm – Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam” (năm 2013); “Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hình sự phục vụ nhiệm vụ sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 1999” (năm 2012); “So sánh chế định sở hữu và hợp đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam và Trung Quốc” (năm 2013)...
Thứ tư, tiếp tục cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình xây dựng Ngành Tư pháp.
Các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu đã góp phần đánh giá toàn diện quá trình phát triển của Ngành Tư pháp từ khi thành lập; đưa ra dự báo về mô hình, tổ chức và hoạt động của Ngành Tư pháp trước yêu cầu mới của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điển hình là các đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện hệ tiêu chuẩn các chức danh tư pháp” (năm 2003); “Cơ quan tư pháp cấp huyện - Thực trạng và giải pháp” (năm 2003); “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam: Thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển” (năm 2003); “Phân cấp quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp” (năm 2006); “Tăng cường năng lực tư pháp xã, phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp” (2008); “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và phát triển Ngành Tư pháp thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (năm 2008); dự án điều tra cơ bản “Tổ chức và hoạt động của các tổ chức thuộc Ngành Tư pháp quản lý phục vụ trực tiếp việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển Ngành Tư pháp giai đoạn 2011 - 2020” (năm 2008 - 2011); “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020” (năm 2010); “Nghiên cứu vai trò của Bộ Tư pháp trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế liên quan đến thực thi các cam kết WTO” (năm 2010); “Giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật” (năm 2011); “Mô hình tổ chức Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương giai đoạn 2011 - 2016 và định hướng đến năm 2020” (năm 2011); “Nâng cao năng lực của công chức, viên chức nữ Ngành Tư pháp để đáp ứng yêu cầu công tác tư pháp giai đoạn 2011 - 2020” (năm 2011); “Nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi cam kết quốc tế của Việt Nam về quyền con người trong lĩnh vực hành chính tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp” (năm 2012); “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng nội dung, hoàn thiện chương trình và phương pháp đào tạo cử nhân ngành luật thương mại quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta” (năm 2012); “Hệ thống đảm bảo chất lượng đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện Tư pháp - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” (năm 2013); “Các giải pháp tăng cường tính thực tiễn trong đào tạo cử nhân luật ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (năm 2013); “Nghiên cứu mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư pháp” (năm 2013); “Xây dựng tiêu chí đánh giá, kiểm soát chất lượng hoạt động xây dựng, quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp” (năm 2013); “Tiêu chí đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính” (năm 2013)...
1.4. Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018
Từ năm 2014 đến năm 2018 là giai đoạn gắn liền với việc tổ chức triển khai Hiến pháp năm 2013 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện và đồng bộ đất nước. Đây cũng là giai đoạn diễn ra quá trình tổng kết 30 năm đổi mới, gắn với việc xây dựng và triển khai các Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) của Đảng. Mục tiêu và định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tiếp tục được khẳng định nhất quán và ngày càng hoàn thiện phù hợp với đặc trưng, định hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trước thềm của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện và tiến tới hình thành nền kinh tế thị trường đầy đủ và hiện đại, có độ mở cao. Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa trong bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại cơ hội và cả những thách thức đối với các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bối cảnh đang đặt ra nhiều vấn đề mới đối với việc hoàn thiện thể chế quản trị quốc gia, đặc biệt là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật...
Từ năm 2014 đến giữa năm 2018, Viện đã chủ trì hoặc tham mưu với Lãnh đạo Bộ cho phép các tổ chức khoa học trong Bộ triển khai 66 đề tài, nhiệm vụ khoa học (trong đó có 01 nhiệm vụ cấp Nhà nước , 51 đề tài cấp Bộ, 14 đề tài cấp cơ sở) và một số nhiệm vụ nghiên cứu khác. Việc triển khai các đề tài, nhiệm vụ này gắn liền với tên tuổi của các chuyên gia, nhà khoa học, các Lãnh đạo như Lê Thành Long, Hoàng Thế Liên, Đinh Trung Tụng, Phan Chí Hiếu, Nguyễn Khánh Ngọc, Dương Thị Thanh Mai, Lê Hồng Hạnh, Nguyễn Ngọc Hòa, Đặng Vũ Huân, Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn Văn Cương, Đồng Ngọc Ba, Võ Đình Toàn, Tô Văn Hòa, Bùi Đăng Hiếu, Đặng Thanh Sơn… Việc huy động đông đảo lực lượng khoa học trong và ngoài Bộ Tư pháp cùng tham gia nghiên cứu các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu của Bộ, bao gồm các chuyên gia, nhà nghiên cứu công tác tại Đại học Luật Hà Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Bộ Nội vụ… tiếp tục được duy trì. Các đề tài, nhiệm vụ này tiếp tục đóng góp tích cực cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và phát triển Ngành Tư pháp, cụ thể:
Thứ nhất, các nhiệm vụ nghiên cứu tiếp tục góp phần giải đáp nhiều vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Điển hình là các đề tài: “Nghiên cứu mô hình xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (đề tài cấp Nhà nước năm 2013 -2015); “Nghiên cứu các giải pháp tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong việc thi hành quy định pháp luật về quyền sử dụng đất của hộ gia đình” (năm 2014); “Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (năm 2015); “Chức năng kinh tế của Nhà nước trong 30 năm đổi mới - Nhìn từ góc độ pháp lý” (năm 2015 - 2016); “So sánh một số chế định doanh nghiệp trong pháp luật Singapore, Malaysia và Thái Lan nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam gia nhập thị trường chung ASEAN” (năm 2015 - 2016)... Đặc biệt, trong năm 2014, theo chỉ đạo của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Tư pháp đã triển khai tổng kết một số vấn đề lý luận – Thực tiễn 30 năm (1986 - 2016) với chủ đề “Đổi mới hệ thống chính trị; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” làm chất liệu xây dựng báo cáo tổng kết của Ban Cán sự Đảng Chính phủ và của Bộ Tư pháp phục vụ việc xây dựng Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Với vị trí là Viện nghiên cứu chiến lược của Bộ và là cơ quan thường trực Hội đồng khoa học Bộ, Viện được giao là cơ quan chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan và các chuyên gia, nhà khoa học xây dựng Dự thảo các báo cáo trên. Các báo cáo tổng kết của Bộ Tư pháp và của Ban Cán sự Đảng Chính phủ được Hội đồng lý luận trung ương đánh giá cao và được sử dụng để xây dựng các Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Nhiều nội dung đã được thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (phần về hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền và dân chủ xã hội chủ nghĩa).
Thứ hai, các nhiệm vụ nghiên cứu phục vụ trực tiếp việc thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Điển hình là các đề tài, nhiệm vụ sau: “Định hướng thể chế hóa bằng pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền con người trong Hiến pháp năm 2013” (năm 2014); “Thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến pháp sửa đổi năm 2013” (năm 2014); “Tăng cường vai trò của Bộ Tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013” (năm 2015); Chương trình khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu khoa học và xây dựng bình luận khoa học về Hiến pháp năm 2013” (năm 2015 - 2016), “Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (năm 2015), “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo đảm thi hành quy định của Hiến pháp năm 2013 về các quyền dân sự, chính trị” (năm 2015), “Tăng cường vai trò của thiết chế truyền thông trong bảo vệ quyền con người và quyền công dân ở Việt Nam” (năm 2015), “Nghiên cứu mô hình thiết chế quốc gia bảo vệ quyền con người của một số nước trên thế giới và đề xuất mô hình ở Việt Nam” (năm 2015), “Nguyên tắc về quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong Hiến pháp năm 2013 và những vấn đề pháp lý đặt ra” (năm 2016), “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế bảo hiến theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” (năm 2016), “Hoàn thiện cơ chế quản trị tòa án để đảm bảo độc lập theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” (năm 2016)... Năm 2018, Viện đã tham mưu với Lãnh đạo Bộ Tư pháp thiết kế và tổ chức chương trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ giai đoạn 2018 – 2020 về “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013”. Đây là chương trình nghiên cứu được kỳ vọng giải đáp được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình triển khai nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.
Thứ ba, các nhiệm vụ nghiên cứu tiếp tục góp phần triển khai các định hướng cải cách pháp luật và cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW.
Điển hình là các đề tài, nhiệm vụ sau: “Đánh giá tác động kinh tế - xã hội của việc thí điểm chế định thừa phát lại” (năm 2014); “Mô hình Hội đồng Tư pháp quốc gia của một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam” (năm 2012); “Nghiên cứu đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam” (năm 2015); “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xác định nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2030” (năm 2012); “Đánh giá quá trình phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2005 - 2015” (năm 2015) (các công trình nghiên cứu này đã trực tiếp phục vụ việc xây dựng dự thảo Báo cáo của Bộ Tư pháp và Báo cáo của Ban Cán sự Đảng Chính phủ tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW); “Xác định những định hướng chính sách lớn phục vụ cho việc xây dựng Luật Thừa phát lại” (năm 2016)...
Thứ tư, các nhiệm vụ nghiên cứu tiếp tục cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, góp phần xây dựng một số đề án, dự án quan trọng do Bộ Tư pháp chủ trì.
Điển hình là các đề tài, nhiệm vụ sau: “Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý” (năm 2014), “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Tư pháp quốc tế” (năm 2014), “Kinh nghiệm thi hành án hành chính của một số nước trên thế giới và khả năng áp dụng tại Việt Nam” (năm 2014), “Nhận diện những vướng mắc, bất cập của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và định hướng sửa đổi, bổ sung” (năm 2014), “Nghiên cứu tính thống nhất giữa Bộ luật Hình sự trong việc quy định các tội phạm với các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam” (năm 2015), “Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với Nhà nước Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng ngừa” (năm 2016), “Xác định những định hướng chính sách lớn phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung Luật Lý lịch tư pháp” (năm 2016), “Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bí mật dữ liệu cá nhân” (năm 2016), “Hoàn thiện cơ chế tổ chức theo dõi thi hành pháp luật ở Việt Nam hiện nay” (năm 2017)… Bên cạnh đó, Viện đã nghiên cứu khảo sát “Đánh giá tác động kinh tế - xã hội của việc thí điểm thừa phát lại tại một số tỉnh/thành phố” (năm 2014 - 2015), đưa ra những dự báo xu hướng và khả năng phát triển của nghề thừa phát lại, mô hình tổ chức, hoạt động của thừa phát lại ở Việt Nam trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đồng thời, kết quả nghiên cứu, khảo sát đã đưa ra được những đề xuất, kiến nghị về chính sách, thể chế, điều kiện bảo đảm triển khai chế định thừa phát lại sau khi kết thúc thí điểm. Báo cáo kết quả của đề án được sử dụng để phục vụ Hội nghị Tổng kết việc thực hiện thí điểm thừa phát lại tại các tỉnh/thành và phục vụ cho kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII (tháng 11/2015). Viện cũng đã nghiên cứu đề án khoa học “Nghiên cứu mô hình trợ giúp pháp lý trong xu hướng xã hội hóa dịch vụ công” với những kiến nghị, đề xuất được chuyển tải kịp thời vào Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 - 2025 (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 01/6/2015) và hiện đang được triển khai áp dụng trong thực tế như: Nâng cao chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý, tập trung thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý trong đó chú trọng vụ việc tham gia tố tụng; duy trì tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý của Nhà nước theo hướng tinh gọn, giảm bớt chi phí bộ máy hành chính, tập trung nguồn lực cho việc nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý... Năm 2017, Viện đã tham mưu với Lãnh đạo Bộ Tư pháp thiết kế và tổ chức chương trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ giai đoạn 2017 - 2021 về “Những vấn đề pháp lý mới phát sinh trong tư pháp quốc tế và trong khuôn khổ Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế”. Đây là các chương trình nghiên cứu được kỳ vọng sẽ giải đáp các vấn đề tư pháp quốc tế mới đặt ra từ thực tiễn mở cửa, hội nhập ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, trong đó có các vấn đề liên quan tới việc sửa đổi, bổ sung Luật Quốc tịch, gia nhập một số công ước của Hội nghị La Hay, sửa đổi, bổ sung Luật tương trợ tư pháp…
1.5. Giai đoạn từ năm 2018 đến nay
Tiếp nối những thành tích đạt được, trong giai đoạn năm năm gần đây, Viện đã chủ trì triển khai thực hiện 109 nhiệm vụ khoa học, bao gồm: 03 hội thảo khoa học cấp quốc gia; 01 đề tài khoa học cấp nhà nước; 03 Chương trình cấp bộ: 79 nhiệm vụ khoa học cấp bộ và 26 nhiệm vụ khoa học cấp cơ sở. Các nhiệm vụ khoa học đã góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn giúp Bộ, Ngành Tư pháp tham gia tích cực việc tham mưu với các cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện chủ trương, định hướng lớn của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đóng góp cho sự phát triển của Bộ, Ngành Tư pháp và cho sự phát triển của nền khoa học pháp lý nước nhà. Cụ thể:
Thứ nhất, các nhiệm vụ nghiên cứu đã phục vụ cho việc tham mưu giúp Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện các nội dung về tư pháp, pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 và trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và gần đây là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới:
- Viện đã chủ trì, phối hợp với các đơn vị trong và ngoài Bộ, các chuyên gia, nhà khoa học tham mưu với Lãnh đạo Bộ hoàn thành 02 chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu: Chuyên đề “Đánh giá toàn diện công tác xây dựng, thực hiện pháp luật, các mục tiêu cải cách tư pháp giai đoạn 2011 - 2020 và mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2021 - 2030, kế hoạch 05 năm 2021 - 2025”; chuyên đề “Phân tích mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của giai đoạn 2011 - 2020 và vấn đề đặt ra trong giai đoạn 2021 - 2030, kế hoạch 05 năm 2021 - 2025”. Đây là những chuyên đề trực tiếp cung cấp chất liệu cho Tổ biên tập xây dựng dự thảo tài liệu Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và nhiều ý kiến của Bộ Tư pháp đã được tiếp thu trực tiếp trong dự thảo tài liệu văn kiện. Trong đó, phải kể tới định hướng: “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới… Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội… Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Phát triển hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án. Nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng”. Để thực hiện các chuyên đề này, bên cạnh sự huy động sự tham gia trực tiếp của các chuyên gia, nhà khoa học, các đơn vị xây dựng pháp luật, quản lý nhà nước, thi hành án dân sự, bổ trợ tư pháp trong Bộ, Viện đã tiếp thu, chắt lọc nhiều kết quả nghiên cứu khoa học của Viện trong những năm qua. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu cùng sự huy động rộng rãi của các chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo các đơn vị trong Bộ, năm 2020, Viện đã tham mưu giúp Bộ Tư pháp hoàn thành các báo cáo góp ý vào các dự thảo văn kiện do Ban Chấp hành trung ương khóa XII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: (i) Góp ý của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp gửi Văn phòng Trung ương Đảng góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; (ii) Góp ý của Đảng ủy Bộ Tư pháp gửi Ban Tuyên giáo Trung ương góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Các ý kiến góp ý này được các cơ quan có thẩm quyền đánh giá cao, nhiều ý kiến được tiếp thu để hoàn thiện dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trong số đó, phải kể tới các nội dung định hướng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, một số nội dung về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Báo cáo Chính trị và các văn kiện quan trọng của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Viện cũng chủ trì tham mưu giúp Bộ Tư pháp góp ý cho gần 20 báo cáo chính trị của các tỉnh, đảng bộ địa phương. Tiếp theo đó, bám sát Chỉ thị số 01-CT/TW ngày 09/3/2021 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Viện là đơn vị đầu mối tiếp tục tham mưu với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp và Lãnh đạo Bộ Tư pháp ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (Chương trình số 10-Ctr/BCS ngày 21/6/2021 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp và Quyết định số 1116/QĐ-BTP ngày 07/7/2021 ban hành Chương trình hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng). Chương trình hành động đã cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, định hướng trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng liên quan tới chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp với 41 đề án, nhiệm vụ và 08 nhiệm vụ trọng tâm: (i) Tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, phổ biến nội dung của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; (ii) Nâng cao vai trò của Bộ, Ngành Tư pháp trong việc tham mưu với Quốc hội, Chính phủ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới; (iii) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, giảm thiểu rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với xã hội, tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp; (iv) Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính, tiếp tục giảm án tồn, đồng thời nâng cao tỷ lệ thi hành xong hoàn toàn về việc và về tiền, rút ngắn thời gian thi hành án dân sự; (v) Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, tiếp tục phát triển các dịch vụ pháp lý, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tư pháp, khả năng tiếp cận công lý của người dân, doanh nghiệp; (vi) Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực hành chính tư pháp; (vii) Nâng cao hiệu quả công tác pháp luật quốc tế, tăng cường vai trò của Bộ Tư pháp giúp Chính phủ, các bộ, ngành địa phương trong xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế phát sinh từ quá trình hội nhập; chủ động, tích cực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp; (viii) Tăng cường công tác xây dựng Bộ, Ngành, đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học pháp lý. Cũng nhằm kịp thời phổ biến, quán triệt chuyên sâu, nâng cao nhận thức và xác định các giải pháp kịp thời triển khai các nội dung của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng liên quan tới công tác tư pháp, pháp luật, năm 2021, Viện đã chủ trì, tham mưu với Bộ Tư pháp phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức thành công Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng” với sự chủ trì và tham gia của nhiều đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các đồng chí Lãnh đạo các Ủy ban của Quốc hội, Lãnh đạo các Ban, bộ, ngành trung ương, các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành.
- Viện đã chủ trì, tham mưu với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Bộ Tư pháp tham gia một cách chủ động, tích cực trong quá trình xây dựng và triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong suốt quá trình xây dựng Nghị quyết (tính từ tháng 7/2021 đến hết tháng 10/2022), theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền, Viện đã cung cấp các kết quả nghiên cứu khoa học cấp Bộ trong những năm gần đây, nhất là hàng chục đề tài nghiên cứu được tiến hành kể từ khi ban hành Hiến pháp năm 2013 có liên quan tới việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các nghiên cứu về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, về tổ chức thi hành pháp luật, về cải cách tư pháp để cơ quan thường trực xây dựng Nghị quyết (Ban Nội chính Trung ương) khai thác, sử dụng. Đồng chí Bộ trưởng (thành viên Ban Chỉ đạo của Trung ương về xây dựng Đề án và Nghị quyết), các đồng chí Lãnh đạo Bộ đã giao Viện chủ trì, phối hợp với các đơn vị trong Bộ khai thác các kết quả nghiên cứu, tổng kết của Bộ, Ngành, huy động trí tuệ của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn trong và ngoài Bộ, chuẩn bị ý kiến tham mưu một cách trách nhiệm, giúp cho Bộ trưởng và các đồng chí Lãnh đạo Bộ tham gia tích cực các hoạt động của Ban Chỉ đạo và của Trung ương. Cũng trong quá trình tham gia xây dựng Nghị quyết số 27-NQ/TW, Lãnh đạo Bộ Tư pháp cũng giao cho Viện chủ trì, giúp Lãnh đạo Bộ Tư pháp chuẩn bị ý kiến tham mưu với Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đóng góp nhiều ý kiến xác đáng từ thực tiễn công tác tư pháp, pháp luật. Đồng thời, Viện cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chủ trì, giúp Bộ Tư pháp tham mưu với Ban Cán sự Đảng Chính phủ xây dựng báo cáo chuyên đề “Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật ở Việt Nam – Thực trạng và quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Viện cũng tham gia tích cực với các đơn vị trong Bộ tích cực tham gia xây dựng 02 chuyên đề quan trọng của Ban Chỉ đạo Trung ương phục vụ quá trình xây dựng Nghị quyết (liên quan tới công tác thi hành án dân sự và bổ trợ tư pháp) và một số chuyên đề thành phần liên quan tới công tác hợp tác quốc tế về tư pháp, pháp luật và công tác đào tạo nguồn nhân lực pháp luật theo yêu cầu của Ban Nội chính Trung ương. Có thể nói, trên cơ sở bám sát các chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị và của đồng chí Tổng Bí thư, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều thông tin, kết quả nghiên cứu có giá trị, đề xuất tâm huyết của Bộ Tư pháp có sự đóng góp của Viện với tư cách là đơn vị đầu mối tham mưu đã được các cơ quan có thẩm quyền và Trung ương sử dụng trong quá trình xây dựng Nghị quyết, nhất là trong nội dung về mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các nhiệm vụ và giải pháp liên quan tới công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng. Sau khi Nghị quyết số 27-NQ/TW được ban hành, Viện đã hoàn thành nhiệm vụ tham mưu với Bộ Tư pháp giúp Chính phủ xây dựng Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 12/5/2023 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW. Viện cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ xây dựng, ban hành Chương trình hành động để triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW (Chương trình hành động số 82-Ctr/BCS ngày 22/5/2023 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp và Quyết định số 764/QĐ-BTP ngày 22/5/2023 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp).
- Viện tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ đơn vị thường trực giúp Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp theo dõi triển khai nhiệm vụ cải cách tư pháp trong Bộ, Ngành Tư pháp; tham mưu với Bộ Tư pháp giúp Ban Cán sự Đảng Chính phủ theo dõi việc triển khai các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo yêu cầu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương...
Để trực tiếp phục vụ nhiệm vụ triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp, Viện đã triển khai nhiều đề tài nghiên cứu có giá trị như: Đề tài “Cơ sở lý luận, thực tiễn và những định hướng lớn xây dựng Luật Tổ chức thi hành pháp luật” (hoàn thành năm 2021); đề tài “Hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng” (hoàn thành năm 2022); đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng” (dự kiến hoàn thành trong năm 2023); Chương trình nghiên cứu khoa học cấp bộ 2021 - 2025 “Quản trị nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (bắt đầu thực hiện từ năm 2022) với 03 đề tài khoa học cấp bộ đã được nghiêm thu gồm: Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định những định hướng, lộ trình cải cách tư pháp đối với các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Chính phủ trong Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”; đề tài “Giải pháp tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”; đề tài “Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”…
Thứ hai, Viện tiếp tục chủ trì nhiều đề tài góp phần triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Trong giai đoạn 2018 - 2023, Viện đã hoàn thành chương trình nghiên cứu khoa học cấp bộ giai đoạn 2018 - 2020 về “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013” với 11 nhiệm vụ đề tài và hội thảo khoa học cấp bộ. Trong đó, nhiều nhiệm vụ có nội dung liên quan đến vấn đề tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị, cụ thể như: 03 nhiệm vụ nghiên cứu về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; 02 nhiệm vụ nghiên cứu về mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, đó là “Phân định thẩm quyền giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” và “Cơ chế kiểm soát giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương tại Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp”; 02 nhiệm vụ nghiên cứu về nội dung nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, đó là: “Cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước - Kinh nghiệm quốc tế và giá trị tham khảo cho Việt Nam” và “Trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng và thi hành pháp luật - Thực trạng và giải pháp”; “Mô hình tài phán đối với các văn bản quy phạm dưới luật - Kinh nghiệm quốc tế và giá trị tham khảo cho Việt Nam”…
Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc trao Bằng khen cho các cá nhân có thành tích xuất sắc
đóng góp cho quá trình 40 năm xây dựng và phát triển của Viện
Thứ ba, Viện đã triển khai nhiều đề tài, nhiệm vụ phục vụ đắc lực cho công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của Bộ, Ngành Tư pháp. Hầu hết các dự án luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo đều có sự đóng góp của các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, cụ thể: Đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng Luật” (năm 2019-2020); đề tài “Nghiên cứu xây dựng những định hướng chính sách lớn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật Nuôi con nuôi 2010” (hoàn thành năm 2019); đề tài “Nhận diện lý thuyết vật quyền và vấn đề áp dụng tại Việt Nam” (hoàn thành trong năm 2018); đề tài “Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm để thực thi các quy định mới của Bộ luật Dân sự năm 2015” (hoàn thành trong năm 2018); đề tài “Hoàn thiện thể chế nhằm thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân” (hoàn thành trong năm 2020); đề tài “Xây dựng, hoàn thiện pháp luật điều chỉnh mô hình kinh tế chia sẻ ở Việt Nam hiện nay” (hoàn thành năm 2021); đề tài “Hoàn thiện mô hình tổ chức của Bộ, Ngành Tư pháp giai đoạn 2021 - 2035 đảm bảo nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước” (hoàn thành năm 2020); Nhiệm vụ điều tra cơ bản “Khảo sát, đánh giá thực trạng Bộ, Ngành Tư pháp từ năm 2013 đến nay phục vụ đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (hoàn thành năm 2020); đề tài “Phân cấp, phân quyền trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, Ngành Tư pháp giai đoạn từ nay đến năm 2030” (hoàn thành năm 2022); đề tài “Nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư, công chứng và giám định tư pháp đến năm 2030” (hoàn thành năm 2019); đề tài “Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động xây dựng pháp luật” (hoàn thành năm 2019); đề án “Xây dựng tiêu chí, mô hình, quy trình và phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp” (hoàn thành năm 2019); đề tài “Các biện pháp nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản cho nhà nước trong các vụ án tham nhũng” (hoàn thành năm 2019); đề tài “Thực trạng công tác thi hành án hành chính và định hướng hoàn thiện pháp luật về thi hành án hành chính ở Việt Nam” (hoàn thành năm 2020); đề tài “Đổi mới công tác pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật của Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng Bộ Pháp điển” (hoàn thành năm 2021); đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chuyển đổi số trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp” (dự kiến hoàn thành trong năm 2023). Đây là những hoạt động nghiên cứu nhằm xây dựng và tạo lập dữ liệu tham mưu với Lãnh đạo Bộ chỉ đạo việc thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp.
Thứ tư, Viện cũng đã hoàn thành xuất sắc việc triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu để góp phần nhận diện những tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Cụ thể: Hội thảo khoa học cấp quốc gia về “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam” (tổ chức năm 2019); đề tài cấp Nhà nước “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0: Những vấn đề pháp lý cơ bản” (đã nghiệm thu chính thức vào tháng 7/2023); đề tài “Định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0” (hoàn thành năm 2020); đề tài “Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0”; đề tài “Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”…
Thứ năm, Viện cũng đã hoàn thành nhiều đề tài, nhiệm vụ cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn hoạch định chính sách, pháp luật phục vụ quá trình hội nhập quốc tế về tư pháp, pháp luật của Việt Nam. Cụ thể: Viện đã hoàn thành chương trình nghiên cứu cấp Bộ giai đoạn 2017 - 2021 về “Những vấn đề pháp lý mới phát sinh trong tư pháp quốc tế và trong khuôn khổ hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế” với các đề tài như: “Công ước La Hay năm 1980 về khía cạnh dân sự của hành vi bắt cóc trẻ em: Kinh nghiệm quốc tế về gia nhập, thực thi và các đề xuất đối với Việt Nam” (hoàn thành năm 2019); “Công ước La Hay 1970 về thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại: Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất đối với Việt Nam” (hoàn thành năm 2020); “Nghiên cứu xây dựng những định hướng chính sách lớn phục vụ sửa đổi Luật Tương trợ tư pháp năm 2007” (hoàn thành năm 2020); “Lựa chọn luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế mà một bên là thương nhân Việt Nam” (hoàn thành năm 2020); “Công ước La Hay về quyền tài phán, luật áp dụng, công nhận, thi hành và hợp tác liên quan đến trách nhiệm của cha mẹ và các biện pháp bảo vệ trẻ em năm 1996: Nội dung và khả năng gia nhập” (hoàn thành năm 2021); “Công ước Liên Hợp quốc về thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải: Nội dung và khả năng gia nhập của Việt Nam” (hoàn thành năm 2021); “Khung pháp luật theo mô hình EU: Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (hoàn thành năm 2021)... Bên cạnh đó, Viện đã hoàn thành một số đề tài khác như: “Nghiên cứu so sánh cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư ở các quốc gia thành viên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)” (hoàn thành năm 2021); “Các giải pháp nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng thể chế pháp lý ASEAN” (hoàn thành năm 2021)… Các đề tài vừa nêu là kho dữ liệu quan trọng phục vụ các đơn vị tham mưu với Lãnh đao Bộ triển khai các nhiệm vụ của Bộ, Ngành Tư pháp trong tiến trình hội nhập và trong bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giao lưu quốc tế...
2. Công tác quản lý khoa học
Thực hiện nhiệm vụ được giao, Viện đã tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ thông qua các hoạt động: Xây dựng chương trình, kế hoạch nhiệm vụ khoa học dài hạn và hàng năm; tổ chức tư vấn, tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức chủ trì, cá nhân chủ nhiệm thực hiện nhiệm vụ khoa học; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra; tổ chức tư vấn đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học; đăng ký, lưu giữ kết quả nghiên cứu; xây dựng các báo cáo định kỳ, đột xuất về kết quả nghiên cứu và quản lý khoa học với cơ quan nhà nước có thẩm quyền... Qua mỗi thời kỳ, cùng với sự phát triển của Viện, công tác quản lý khoa học không ngừng được hoàn thiện và ngày một chuyên nghiệp.
Ngay từ khi được giao nhiệm vụ quản lý khoa học, Viện đã chú trọng thực hiện việc xây dựng kế hoạch, xây dựng các định hướng nghiên cứu, đánh giá kết quả nghiệm thu bảo đảm công bằng, chất lượng, thực chất và hiệu quả. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, việc quản lý còn mang tính thủ công, việc kiểm tra, đôn đốc nhiệm vụ chưa được thực hiện thường xuyên, tình trạng nợ đọng, chưa bảo đảm tiến độ còn cao.
Bước sang giai đoạn 2006 – 2010, công tác quản lý khoa học có những bước tiến mới, đi vào nề nếp hơn. Đây là giai đoạn quy trình quản lý rõ ràng hơn, đặc biệt là quy trình định hướng nghiên cứu khoa học hàng năm và 05 năm. Việc lựa chọn đơn vị, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học mở rộng hơn theo hướng cạnh tranh, công khai, minh bạch. Các nhiệm vụ khoa học cấp Bộ đều được đưa vào tuyển chọn... Tiếp đó, Viện còn tư vấn, tham mưu giúp cho Lãnh đạo Bộ ban hành các quy chế về quản lý nghiên cứu khoa học của Bộ, Ngành như: Quy chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện đề tài khoa học cấp Bộ (Quyết định số 47/QĐ-BTP ngày 10/01/2007); Quy chế quản lý khoa học của Bộ Tư pháp (Quyết định số 1905/QĐ- BTP ngày 10/8/2009); Quy chế đăng ký, lưu giữ và sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa học (Quyết định số 4299/QĐ-BTP ngày 24/11/2011). Việc triển khai áp dụng các quy chế này trong công tác quản lý đã góp phần đưa hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp ngày một thực chất. Từ năm 2011 đến nay, cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ tiếp tục được đổi mới, đặc biệt từ khi Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/01/2014). Theo đó, các nhiệm vụ khoa học của Bộ triển khai thực hiện được áp dụng theo quy trình quản lý quy định tại Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 cùng với các nghị định và thông tư hướng dẫn. Các quy trình quản lý được thực hiện chặt chẽ ngay từ khâu đề xuất, việc xác định nhiệm vụ được lựa chọn theo các tiêu chí rõ ràng; việc tuyển chọn thực hiện gồm tổ chức chủ trì và cá nhân chủ nhiệm thực hiện nhiệm khoa học; việc đánh giá kết quả nghiên cứu được thực hiện hai bước nghiệm thu của tổ chức chủ trì và nghiệm thu của cơ quan quản lý trên cơ sở tiêu chí đánh giá được quy định rõ ràng; hồ sơ khoa học của từng nhiệm vụ được xây dựng bài bản, có hệ thống; công tác kiểm tra, đánh giá tình hình triển khai tiến độ thực hiện về nội dung, tài chính được tổ chức thường xuyên, định kỳ; báo cáo về ứng dụng các kết quả nghiên cứu của từng nhiệm vụ được thực hiện hàng năm; việc đăng ký, lưu giữ kết quả được thực hiện theo đúng quy trình, cơ bản chấm dứt tình trạng tồn đọng...
Từ năm 2016, Viện đã tổ chức các hội nghị chuyển giao kết quả nghiên cứu cho các đơn vị thụ hưởng và các hội nghị giới thiệu kết quả nghiên cứu khoa học. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khoa học được đẩy mạnh, tin học hóa các quy trình nghiệp vụ, giúp tiết kiệm thời gian, tăng hiệu quả, tính chính xác trong việc theo dõi, thống kê, rà soát thông tin, quản lý nguồn lực khoa học, thống kê phục vụ báo cáo, trao đổi thông tin, quản lý hồ sơ nhiệm vụ khoa học... Ngoài ra, năm 2020, Viện đã xây dựng Quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học của Bộ Tư pháp (Quyết định số 1319/QĐ-BTP ngày 01/6/2020). Đây là hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ, tiếp tục đưa công tác quản lý khoa học của Bộ Tư pháp đi vào nề nếp, chuyên nghiệp, phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của đội ngũ khoa học của Bộ, Ngành Tư pháp.
Với sự nỗ lực trong công tác quản lý khoa học, hoạt động nghiên cứu của Bộ Tư pháp đã dần khẳng định vai trò đi trước, cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ công tác chung của Bộ, Ngành. Thực tiễn cho thấy, với các nhiệm vụ lớn, quan trọng của Bộ, Ngành Tư pháp, Viện luôn tham mưu để Lãnh đạo Bộ bố trí, triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu nhằm cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn triển khai nhiệm vụ. Hoạt động nghiên cứu đã trực tiếp góp phần giúp Lãnh đạo Bộ Tư pháp tích cực tham mưu với Đảng và Nhà nước, Chính phủ trong triển khai các nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; góp phần tích cực vào việc cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần văn kiện các Đại hội Đảng, nghị quyết và chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội và Chính phủ./.
Các đại biểu tham dự Lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý chụp hình lưu niệm
Thu Hằng & Thảo My