Thứ bảy 21/06/2025 14:35
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Áp dụng pháp luật gia đình Hàn Quốc trong việc giải quyết vấn đề ly hôn của gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam

Trong hơn một thập kỷ trở lại đây, các cuộc hôn nhân quốc tế Hàn Quốc - Việt Nam ngày càng phổ biến và nhận được sự quan tâm của cả hai quốc gia.

Tuy nhiên, cuộc sống của các gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong việc hội nhập xã hội, tỷ lệ ly hôn ngày một tăng cao. Mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc ngày càng phát triển, không chỉ ở lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục… mà còn thể hiện thông qua các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam và Hàn Quốc. Trong số 240.000 phụ nữ di trú kết hôn đang sinh sống tại Hàn Quốc, thì có đến 55.700 người là phụ nữ Việt Nam chiếm tỷ lệ 23% và là quốc gia có phụ nữ đến Hàn Quốc kết hôn cao thứ hai sau Trung Quốc. Đặc biệt, trong số 204.000 đứa trẻ sinh ra trong gia đình đa văn hóa thì có 54.700 đứa trẻ có mẹ là người Việt Nam, chiếm tỷ lệ 27%, là tỷ lệ cao nhất so với các nước khác[1].

Cùng với sự gia tăng của các cuộc kết hôn, thì tỷ lệ ly hôn của các gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam cũng tăng cao, thậm chí tỷ lệ ly hôn hiện nay còn tăng cao hơn tỷ lệ kết hôn. Năm 2009, kết hôn là 7.249 trường hợp và ly hôn là 1.292 trường hợp; năm 2010, kết hôn là 9.623 trường hợp và ly hôn là 1.552 trường hợp; năm 2011, kết hôn là 7.636 trường hợp và ly hôn là 1.931 trường hợp; năm 2012, kết hôn là 6.586 trường hợp và ly hôn là 1.992 trường hợp; năm 2013, kết hôn là 5.770 trường hợp và ly hôn là 2.057 trường hợp[2]
Từ con số thống kê nêu trên cho thấy, tỷ lệ kết hôn giữa nam giới Hàn Quốc và nữ giới Việt Nam có xu hướng giảm. Tuy nhiên, tỷ lệ ly hôn của gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam lại có xu hướng tăng cao (từ 1.292 vụ năm 2009 lên 2.057 vụ năm 2013). Điều đó cho thấy, cuộc sống của các cặp vợ chồng trong gia đình đa văn hóa là không hoàn toàn hạnh phúc. Tỷ lệ ly hôn cao của các cặp vợ chồng Hàn Quốc - Việt Nam nói riêng và các cặp vợ chồng trong gia đình đa văn hóa của Hàn Quốc nói chung không chỉ gây ảnh hưởng tiêu cực về tinh thần, cuộc sống của các cặp vợ chồng, các thành viên trong gia đình của họ, mà nó còn là sự cản trở hội nhập xã hội, sự phát triển chung của xã hội. Để giúp các gia đình đa văn hóa nói chung và gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam nói riêng, pháp luật gia đình Hàn Quốc đã có những quy định điều chỉnh, bên cạnh đó, nhiều chính sách được thực hiện nhằm hỗ trợ các gia đình đa văn hóa.
1. Những yếu tố ảnh hưởng tới ly hôn của các gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam
Có nhiều các nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ ly hôn tăng cao của các gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam. Trong đó, có một số nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, đó là sự khác biệt về văn hóa, lối sống, ngôn ngữ. Những cô dâu Việt Nam đến Hàn Quốc phải trải nghiệm sự khác biệt về văn hóa, lối sống giữa gia đình của họ ở Việt Nam và gia đình nhà chồng ở Hàn Quốc. Thêm vào đó, cản trở về ngôn ngữ khiến họ khó khăn trong việc hòa nhập với gia đình nhà chồng và xã hội.
Thứ hai, những cô gái Việt Nam đến Hàn Quốc kết hôn chủ yếu với mục đích cải thiện kinh tế cho gia đình ở quê hương của họ. Tuy nhiên, những người họ kết hôn lại không giống như những gì họ đã được biết từ những người mai mối. Những người đàn ông Hàn Quốc kết hôn với phụ nữ nước ngoài thường là những người sống ở nông thôn, những người có thu nhập thấp, người đã từng kết hôn, những người có độ tuổi cao… gặp khó khăn trong việc kết hôn với những người phụ nữ ở trong nước nên thường hướng đến các cuộc hôn nhân với phụ nữ ở các quốc gia có điều kiện kinh tế thấp hơn. Do đó, những cô dâu Việt Nam sẽ nhanh chóng thất vọng khi đến gia đình chồng ở Hàn Quốc.
Thứ ba, thu nhập của hộ gia đình thấp, tỷ lệ thất nghiệp cao có ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của các gia đình đa văn hóa. Những người nam giới Hàn Quốc lấy vợ là phụ nữ Việt Nam phần lớn là những người có thu nhập và địa vị xã hội thấp. Những cô dâu Việt Nam đến Hàn Quốc cũng khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm do cản trở về ngôn ngữ và trình độ giáo dục. Thu nhập của hộ gia đình thấp đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của các cặp vợ chồng đa văn hóa và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến ly hôn.
Thứ tư, những cô dâu Việt Nam và con cái của họ phải đối mặt với sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Hàn Quốc là một quốc gia có một dân tộc thuần nhất. Do đó, sự xuất hiện của những người di trú kết hôn đã tạo ra những đặc trưng và sự khác biệt về ngoại hình, văn hóa, ngôn ngữ. Điều đó đã khiến họ và con cái của họ bị phân đối xử tại Hàn Quốc và tạo ra những tổn thương về tinh thần. Sự kỳ thị là một hình thức bạo lực tinh thần vô cùng đáng sợ, nó cản trở sự hội nhập và gây ra những bất ổn trong các gia đình đa văn hóa nói chung và gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam nói riêng.
Thứ năm, bạo lực gia đình là nguyên nhân chính và không thể chối cãi cho sự tan vỡ của các gia đình đa văn hóa. Trong một khảo sát ngẫu nhiên về các gia đình đa văn hóa của Shanghee Kim đã cho thấy, trong số 63 gia đình đa văn hóa có bạo lực gia đình đều dẫn tới ly hôn[3]. Cũng trong thời gian qua, các cô dâu Việt Nam và các cô dâu đến từ các quốc gia khác đều phải đối mặt với vấn đề bạo lực gia đình khi đến Hàn Quốc kết hôn. Họ phải chịu những vấn đề bạo lực cả về thể chất và tinh thần. Đây cũng là nguyên nhân khiến các cuộc hôn nhân quốc tế Hàn Quốc - Việt Nam có xu hướng chững lại trong thời gian gần đây.
Thứ sáu, khoảng cách tuổi tác của các cặp vợ chồng cũng có liên quan mật thiết đến tỷ lệ ly hôn cao của các gia đình đa văn hóa. Khoảng cách tuổi tác trung bình của các cặp vợ chồng đa văn hóa là 6,9 tuổi (năm 2000), thì đến năm 2010 khoảng cách tuổi trung bình đã mở rộng ra lên đến 12,1 tuổi. Những người chồng Hàn Quốc đã từng kết hôn cũng chiếm một tỷ lệ cao.
Ngoài những vấn đề trên, còn có nhiều vấn đề khác ảnh hưởng đến cuộc sống hôn nhân của các gia đình đa văn hóa như khu vực sống, vô sinh… Tất cả những điều đó đã tạo nên những bất hòa, sự căng thẳng, mệt mỏi và dẫn tới ly hôn. Thời gian trung bình của một cuộc hôn nhân đa văn hóa là 3,2 năm quá ngắn so với cuộc hôn nhân của cặp vợ chồng người Hàn Quốc là 14 năm. Do đó, giải quyết các vấn đề của các gia đình đa văn hóa là một vấn đề quan trọng được đặt ra với Chính phủ Hàn Quốc và để đạt được hiệu quả cao, sự phối hợp giữa các quốc gia có công dân di trú đến Hàn Quốc kết hôn là điều rất cần thiết.
2. Áp dụng pháp luật gia đình Hàn Quốc trong việc giải quyết vấn đề ly hôn của các gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam
Hiện nay, pháp luật gia đình Hàn Quốc đã có nhiều quy định cụ thể để điều chỉnh và hỗ trợ các gia đình đa văn hóa nói chung và đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam nói riêng. Bên cạnh Luật Gia đình được quy định trong Bộ luật Dân sự Hàn Quốc năm 2005 còn có các văn bản luật điều chỉnh các vấn đề cụ thể của các gia đình đa văn hóa như: Luật Hỗ trợ gia đình đa văn hóa năm 2007; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình sửa đổi năm 2006; Luật Quốc tịch sửa đổi năm 1997; Luật Quản lý nghề môi giới hôn nhân năm 2013.
Cũng như gia đình có vợ chồng đều là người Hàn Quốc, các mối quan hệ của gia đình đa văn hóa cũng được điều chỉnh bởi Luật Gia đình Hàn Quốc về các vấn đề liên quan đến các vấn đề thân tộc, kết hôn, ly hôn, quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, quan hệ cấp dưỡng, nuôi dưỡng… nhằm đảm bảo sự ổn định chung của các gia đình Hàn Quốc. Hàn Quốc đã ban hành Luật Hỗ trợ gia đình đa văn hóa vào năm 2007 (có hiệu lực từ tháng 9/2008) nhằm xây dựng một hệ thống chính sách hỗ trợ gia đình đa văn hóa để thích nghi với xã hội Hàn Quốc, cung cấp thông tin để đồng nhất xã hội và cải thiện đời sống của các gia đình đa văn hóa, nhiều chính sách về kinh tế, giáo dục, y tế, pháp lý, chống bạo lực gia đình và các phúc lợi xã hội được đẩy mạnh.
Năm 2008, Chính phủ đã hỗ trợ những người phụ nữ Việt Nam di trú đến Hàn Quốc kết hôn khắc phục các vấn đề về kinh tế như làm nhân viên tư vấn, thông dịch viên, giáo viên dạy tiếng Việt - Hàn, giảng dạy về đa văn hóa. Đồng thời, Hàn Quốc cũng đã ưu tiên áp dụng chế độ khám chữa bệnh cho những phụ nữ là người nước ngoài đến Hàn Quốc kết hôn trong đó có các phụ nữ đến từ Việt Nam. Năm 2010, đặc thù hóa trung tâm phát triển nguồn nhân lực phụ nữ và bắt đầu đào tạo nghề, hướng nghiệp cho phụ nữ di trú kết hôn. Các công tác giáo dục và đào tạo dành cho phụ nữ nước ngoài di trú kết hôn được đẩy mạnh. Các trung tâm, chương trình dạy tiếng Hàn miễn phí cho phụ nữ di trú kết hôn nhằm nâng cao khả năng giao tiếp tiếng Hàn và hiểu biết về văn hóa của Hàn Quốc.
Tháng 12/2008, Chính phủ Hàn Quốc đã “thẩm định, quyết định kế hoạch cơ bản chính sách dành cho người nước ngoài lần thứ nhất” dưới sự giám sát của Thủ tướng. Đến năm 2013, chính sách cơ bản về người nước ngoài và đa văn hóa được ban hành lần thứ 2 (từ năm 2013 đến 2017) nhằm đưa ra những chính sách tốt nhất để hỗ trợ người nước ngoài và các gia đình đa văn hóa.
Luật Quốc tịch Hàn Quốc sửa đổi được thông qua vào ngày 13/12/1997 đã cho phép phụ nữ nước ngoài kết hôn với nam giới Hàn Quốc được phép nhập quốc tịch Hàn Quốc sau 02 năm sinh sống ở Hàn Quốc. Những trường hợp kết hôn sau ngày 20/01/2014 dù chưa sinh sống ở Hàn Quốc được 2 năm nhưng nếu chồng mất hoặc chồng mất tích; ly hôn do lỗi của chồng hoặc phải nuôi con tuổi vị thành niên thì được nhập quốc tịch Hàn Quốc. Khi được nhập quốc tịch, những người phụ nữ này được hưởng các chính sách, phúc lợi xã hội như những người phụ nữ Hàn Quốc khác.
Bên cạnh đó, để đảm bảo giảm thiểu tỷ lệ ly hôn của các gia đình đa văn hóa, tình trạng kết hôn giả tạo, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành Luật Quản lý nghề môi giới hôn nhân để kiểm soát các hoạt động tư vấn và giới thiệu hôn nhân, trong đó có môi giới hôn nhân quốc tế. Có thể nhận thấy, sự cung cấp thông tin sai lệch của người môi giới hôn nhân về đối tượng kết hôn đã dẫn tới việc kết hôn không như mong muốn. Những người phụ nữ Việt Nam đến Hàn Quốc kết hôn với mục đích cải thiện kinh tế của gia đình họ ở quê hương. Tuy nhiên, khi đến Hàn Quốc họ nhận thấy rằng, điều kiện kinh tế của họ không được cải thiện, những thông tin mà người môi giới đưa ra không chính xác và họ nhanh chóng thất vọng. Với quy định của Luật Quản lý nghề môi giới hôn nhân, những người hành nghề môi giới phải cung cấp chính xác các thông tin về tiểu sử hôn nhân, tình trạng sức khỏe, nghề nghiệp, lý lịch tư pháp, quy định của pháp luật nước sở tại. Những thông tin này phải được viết bằng tiếng mà người nhận thông tin và đối phương có thể hiểu được.
3. Kết luận
Hiện nay, các gia đình đa văn hóa chiếm một tỷ lệ tương đối cao trong xã hội Hàn Quốc. Những gia đình đa văn hóa có phụ nữ Việt Nam luôn được Chính phủ Hàn Quốc đặc biệt quan tâm. Pháp luật gia đình Hàn Quốc đã có nhiều quy định để điều chỉnh và hỗ trợ những gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam. Để nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống và giảm thiểu tỷ lệ ly hôn ngày một tăng cao của các gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam cần có sự trao đổi, phối hợp giữa hai quốc gia trong việc xây dựng các quy định của pháp luật gia đình, các chính sách hỗ trợ gia đình đa văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam.

Lee Seon Hee
Nghiên cứu sinh tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội


Tài liệu tham khảo:
1. Luật Gia đình Hàn Quốc năm 2005;
2. Luật Hỗ trợ gia đình đa văn hóa Hàn Quốc năm 2007;
3. Luật Quốc tịch Hàn Quốc năm 1997;
4. Luật Quản lý nghề môi giới hôn nhân năm 2013;
5. Luật Phòng chống bạo lực gia đình sửa đổi năm 2006;
6. Kim ShangHee, Ly hôn của người nhập cư kết hôn tại Hàn Quốc: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới ly hôn, Trường Đại học Quản lý hành chính công Martin, 2015;
7. Kang HyeSook, Đề án Phát triển chính sách gia đình đa văn hóa và giáo dục định hướng nhìn từ các trường hợp hỗ trợ phụ nữ di trú kết hôn, Trung tâm Nhân quyền phụ nữ di trú Hàn Quốc;
8. GS. Seol DongHoon, Tình hình hiện nay và triển vọng trong tương lai của kết hôn quốc tế và gia đình đa văn hóa, Trường Đại học Chonbuk;
9. Cục Thống kê Hàn Quốc, Thống kê về hôn nhân - ly hôn (2000 - 2013).


[1] Cục Thống kê Hàn Quốc, Thống kê về kết hôn 2000 - 2013.

[2] Cục Thống kê Hàn Quốc, Thống kê về kết hôn và ly hôn 2000 - 2013.

[3] Xem: Shanghee Kim, Ly hôn của người nhập cư kết hôn tại Hàn Quốc: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới ly hôn, Trường Đại học Quản lý hành chính công Martin, 2015.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm