Thứ sáu 13/06/2025 09:42
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong Bộ luật Hình sự

Tóm tắt: Bài viết đề cập đến những quy định mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ so với Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), lưu ý và bất cập khi áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

Tóm tắt: Bài viết đề cập đến những quy định mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ so với Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), lưu ý và bất cập khi áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

Abstract: The article is concerned with new provisions of the Criminal Code in 2015 (amended and supplemented in 2017) on violations of regulations on road traffic participation in comparison with Criminal Code in 1999 (amended and supplemented in 2009), inadequacies when applying the rule in implemented.

Trong 06 tháng đầu năm 2018, cả nước đã xảy ra gần 9.000 vụ tai nạn giao thông, khiến hơn 4.000 người thiệt mạng, trên 7.000 người bị thương, thiệt hại về tài sản hàng nghìn tỷ đồng[1]. So với năm 2017, tai nạn giao thông giảm ở cả 03 tiêu chí về số vụ, số người chết và số người bị thương, cụ thể, số vụ tai nạn giao thông giảm gần 600 vụ (giảm 6,19% về số vụ), giảm hơn 30 người chết (giảm 0,75% về số người chết) và hơn 900 người bị thương (giảm 11,44% về số người bị thương). Trong số vụ tai nạn giao thông thì tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 8.889 vụ (chiếm 98% vụ tai nạn giao thông), đường sắt xảy ra 62 vụ, đường thủy nội địa xảy ra 40 vụ và đường hàng không xảy ra 10 sự cố. Chính vì vậy, Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là tội đầu tiên được quy định trong Mục 1. Các tội xâm phạm an toàn giao thông thuộc Chương XXI. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) với những điểm mới, những thay đổi quan trọng như sau:

Thứ nhất, thay đổi tên gọi của điều luật là “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thay cụm từ “tham gia” cho cụm từ “điều khiển phương tiện” tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Bộ luật Hình sự năm 1999), việc thay đổi tên của điều luật đã bao quát được các đối tượng vi phạm quy định do Luật Giao thông đường bộ năm 2008 điều chỉnh. Nói cách khác, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội rộng hơn so với Bộ luật Hình sự năm 1999, theo đó, chủ thể của tội phạm là “người tham gia giao thông đường bộ”.

Ví dụ như, đối với người đi bộ trên đường bộ không đúng quy định về an toàn giao thông, gây tai nạn giao thông làm cho người khác bị thiệt hại về tính mạng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, về tài sản của người khác thì khi căn cứ vào quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999 thường rất khó xử lý đối với người đi bộ (không phải người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ). Vì chưa có quy định rõ ràng trong việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với người đi bộ nên các Tòa án khiên cưỡng xử lý hành vi này về Tội cản trở giao thông đường bộ tại Điều 203 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Theo đó, tại khoản 22 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 thì “Người tham gia giao thông đường bộ gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ”.

Như vậy, chủ thể của tội phạm đã có sự thay đổi phù hợp với thực tiễn khi xử lý hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hay phạt tù đến 15 năm.

- Việc thay đổi tên của điều luật đã thống nhất được quan điểm xử lý hình sự đối với phương tiện tham gia giao thông đường bộ (không chỉ là phương tiện giao thông đường bộ như quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999). Theo đó, khoản 17, khoản 20 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định: “Phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ” và “Phương tiện tham gia giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông đường bộ và xe máy chuyên dùng”.

Trong khi đó, theo quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì chỉ người điều khiển phương tiện giao thông gây ra hậu quả nghiêm trọng thì mới bị áp dụng xử lý hình sự. Như vậy, trong trường hợp người điều khiển xe máy chuyên dùng như ô tô chữa cháy, ô tô cần cẩu, ô tô bơm trộn bê tông… tham gia giao thông đường bộ mà gây tai nạn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì không có căn cứ tại Bộ luật Hình sự năm 1999 để giải quyết.

Mặc dù, tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông quy định “Phương tiện giao thông đường bộ gồm: Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ và xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ” phù hợp với thực tiễn áp dụng nhưng lại mâu thuẫn với quy định tại Luật Giao thông đường bộ năm 2008 khi xác định về phương tiện giao thông đường bộ.

Vì vậy, điểm mới của Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 không những đảm bảo đúng nguyên tắc tính thống nhất giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Giao thông đường bộ năm 2008 mà còn giải quyết được vướng mắc về vấn đề chủ thể của tội phạm (không chỉ có người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ) và phương tiện tham gia giao thông đường bộ (không chỉ là phương tiện giao thông đường bộ).

Thứ hai, quy định cụ thể hậu quả về tính mạng, sức khỏe, tài sản (điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự) do hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ gây ra để làm căn cứ định tội và định khung hình phạt.

Điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự một hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 đó là, hành vi vi phạm “gây thiệt hại cho tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác” hoặc “gây hậu quả rất nghiêm trọng” hoặc “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Vì vậy, ngoài việc viện dẫn đến Luật Giao thông đường bộ năm 2008 thì còn viện dẫn đến văn bản hướng dẫn thi hành (như Thông tư liên tịch số 09/2013).

Trong khi đó, Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã xác định cụ thể từng trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng với khung hình phạt từ khoản 1 đến khoản 3, do đó, không phải dẫn chiếu đến các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể:

“…1. a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên”.

Bên cạnh việc quy định cụ thể về hậu quả giúp cho người tìm hiểu và nghiên cứu pháp luật dễ dàng xác định điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự của Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì cũng có một số bấp cập trong việc áp dụng các khoản của điều luật vào trong thực tế giải quyết các vụ án về loại tội này như sau:

- Về điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên”: Điều này có nghĩa, chỉ khi nào người tham gia giao thông đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên mới cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tỷ lệ tổn thương cơ thể được quy định theo hướng có lợi cho người thực hiện hành vi vi phạm so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Bởi, theo quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Thông tư liên tịch số 09/2013 thì người vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi “gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên”. Như vậy, với việc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên là cấu thành tội phạm này.

Hơn nữa, trong trường hợp, người tham gia giao thông có hành vi vi phạm quy định về giới hạn tốc độ, về sử dụng làn đường, chở quá trọng tải quy định… gây tai nạn làm một người bị thương tích 51%. Vậy, người tham gia giao thông vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ (Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015) hay vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác (Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 2015) với việc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% là cấu thành tội phạm.

Trong trường hợp trên, quan điểm thứ nhất cho rằng, không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm, vì theo quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải gây thiệt hại cho sức khoẻ của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên mới cấu thành tội phạm này. Trong trường hợp này, hành vi vi phạm xâm hại khách thể nào thì áp dụng điều luật tương ứng. Theo đó, hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản, vì thế, chỉ có thể xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm được quy định trong nhóm tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ.

Quan điểm thứ hai cho rằng, có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm này về Tội vô ý gây thương tích theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 2015, bởi trong trường hợp này, người vi phạm thực hiện với lỗi vô ý (có thể là vô ý do cẩu thả hoặc vô ý vì quá tự tin): Người có hành vi vi phạm đã gây ra hậu quả nhưng do cẩu thả nên không thấy trước được khả năng gây ra hậu quả đó mặc dù được điều kiện khách quan buộc họ phải thấy trước hoặc có thể thấy trước hậu quả đó, hoặc tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Đồng thời, thỏa mãn điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự là gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và giữa hành vi vi phạm của người tham gia giao thông đường bộ với thương tích của nạn nhân có mối quan hệ nhân quả. Vì thế, mặc dù hành vi vi phạm về tham gia giao thông đường bộ nêu trên không cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 nhưng thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên vẫn bị truy cứu trách nhiệm theo điều luật này.

Với hai quan điểm nêu trên, có thể thấy, nếu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quan điểm thứ hai thì quá khiên cưỡng bởi nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ chứ không phải xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người.

Khi sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hậu quả của tội này là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% được quy định tại khoản 4 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (giống với quy định về hậu quả tại khoản 1 Điều 138) bị bãi bỏ. Không thể cùng một dạng hành vi nguy hiểm cho xã hội thì có hành vi bị coi là tội phạm, có hành vi không bị coi là tội phạm, hơn nữa, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được đánh giá có mức nguy hiểm cho xã hội cao hơn lại bị bãi bỏ.

Chính vì vậy, việc sửa đổi này đã tạo nên bất cập trong thực tiễn áp dụng và không bảo đảm nguyên tắc thống nhất và công bằng trong pháp luật hình sự. Đồng thời, tiềm ẩn phát sinh các mâu thuẫn trong xã hội khi người có hành vi vi phạm quy định về giao thông đường bộ biết mình không bị truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ coi thường pháp luật, không ý thức được hành vi vi phạm của mình, không hòa giải với nạn nhân dẫn đến phát sinh những khiếu nại và khởi kiện không đáng có.

- Về áp dụng điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015: Khi cụ thể hóa “hậu quả rất nghiêm trọng” tại Bộ luật Hình sự năm 2015 thì đã bãi bỏ trường hợp “làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này” được quy định tại Thông tư liên tịch số 09/2013 (tương ứng với quy định tại khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015). Việc bãi bỏ hậu quả này đã dẫn đến bất cập trong thực tiễn áp dụng, cụ thể qua hai tình huống sau:

(i) Người tham gia giao thông đường bộ đi quá tốc độ giới hạn, sai làn đường… nên gây tai nạn làm 01 người chết và 01 người tổn hại 90% sức khỏe. Căn cứ vào quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hành vi của người này chỉ phạm vào Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (với mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt là 05 năm tù, là loại tội nghiêm trọng).

(ii) Người tham gia giao thông đường bộ đi quá tốc độ giới hạn, sai làn đường… nên gây tai nạn làm 01 người tổn hại 68% sức khỏe và 01 người tổn hại 70% sức khỏe. Hậu quả gây ra là làm 02 người tổn hại 138% sức khỏe. Hành vi của người này đã phạm vào Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại điểm e khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (với mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt là 10 năm tù, là loại tội rất nghiêm trọng).

Thông qua hai tình huống trên, hậu quả mà người phạm tội gây ra ở tình huống thứ nhất lớn hơn ở tình huống thứ hai nhưng trách nhiệm hình sự của người phạm tội ở tình huống thứ nhất lại nhẹ hơn ở tình huống thứ hai. Đây chính là bất cập mà Bộ luật Hình sự đã bãi bỏ hậu quả “làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này”.

Ngoài ra, khi cụ thể hóa “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 3 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì đã bãi bỏ trường hợp “làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này” được quy định tại Thông tư liên tịch số 09/2013 cũng tạo nên bất cập trong thực tiễn áp dụng như trên.

Như vậy, để việc áp dụng điều luật thực sự chính xác và hiệu quả cần sớm ban hành hướng dẫn (thông tư liên tịch…) bổ sung về điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự “làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp hướng dẫn tại Điều này”, “làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp hướng dẫn tại Điều này” để thống nhất trong khi áp dụng pháp luật.

Thứ ba, bổ sung hình phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng và giảm mức phạt tù là 01 năm với hành vi “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả” gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời.

Thực tế cho thấy, mặc dù khoản 4 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng có quy định hành vi này nhưng chưa có trường hợp nào bị truy tố, xét xử đối với loại hành vi này. Nguyên nhân là do thiếu căn cứ để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi đã đủ để cấu thành tội phạm này hay chưa và giả sử xác định một hành vi nào đó đã phạm tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì dựa vào căn cứ nào để đưa ra mức hình phạt cho hành vi phạm tội đó. Vì thế, nếu vẫn ghi nhận hành vi này trong Bộ luật Hình sự năm 2015 thì các nhà làm luật cần sớm có văn bản (thông tư liên tịch…) hướng dẫn cụ thể để tránh bỏ lọt tội phạm.

Những quy định mới về Tội vi phạm những quy định về tham gia giao thông đường bộ là căn cứ pháp lý thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng pháp luật, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập nhất định cần phải sớm có hướng giải quyết, khắc phục, có như vậy, công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thực tiễn mới đạt hiệu quả, góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn trật tự xã hội trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ.

ThS. Đinh Thị Thu Hằng

Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I



[1]. Hội nghị trực tuyến Sơ kết công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông 06 tháng đầu năm và nhiệm vụ trọng tâm 06 tháng cuối năm 2018 do Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia Trương Hòa Bình chủ trì.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm