Mặt khác, sự tham gia của họ trong tố tụng hình sự là nhân tố góp phần quan trọng trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xác định sự thật khách quan của vụ án. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có nhiều điểm mới về bị hại, thể hiện tinh thần, mục tiêu của cải cách tư pháp, đáp ứng nhu cầu sửa đổi nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế trong tố tụng hình sự, đồng thời đánh dấu một bước quan trọng về việc bảo đảm nâng cao quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, là cơ sở pháp lý để giải quyết toàn diện vụ án hình sự, kể cả các vấn đề dân sự phát sinh trong vụ án hình sự. Bài viết đã đề cập tới một số nội dung trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của người bị hại, như: Một số điểm mới về bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Những yêu nhằm bảo đảm tính khả thi trong áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bảo vệ quyền lợi của bị hại.
1. Một số điểm mới về bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Thứ nhất, định danh lại chủ thể là “bị hại” chứ không phải là “người bị hại”, mở rộng phạm vi chủ thể là bị hại
Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Với quy định này cùng với một số văn bản hướng dẫn một số vụ án cụ thể của Tòa án nhân dân tối cao dẫn đến việc nhận thức và áp dụng quy định về người bị hại không thống nhất, ngay cả việc xác định chủ thể là người bị hại cũng có những quan điểm khác nhau, các quan điểm truyền thống cho rằng chủ thể là người bị hại trong tố tụng hình sự chỉ là cá nhân không thể là pháp nhân, càng không thể là tổ chức không có tư cách pháp nhân. Nếu tổ chức bị tội phạm gây ra thiệt hại thì họ là nguyên đơn dân sự.[1] Quan điểm này dựa trên cơ sở quy định “người bị hại là người…”, từ “người” có hàm ý chỉ cá nhân, nó phù hợp với thiệt hại mang tính đặc trưng gắn với một cá nhân con người cụ thể là “thể chất”, “tinh thần”. Quan điểm khác cho rằng, người bị hại có thể là cá nhân, cũng có thể là tổ chức nếu thiệt hại của tổ chức là thiệt hại do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra, còn thiệt hại gián tiếp thì tổ chức sẽ có tư cách nguyên đơn dân sự nếu nộp đơn yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ quyền lợi của mình[2]. Với những quan điểm khác nhau như vậy dẫn đến quyền lợi của người bị hại trong những vụ án hình không được bảo đảm một cách triệt để đồng thời khó khăn đối với chính người bị hại trong việc thực hiện quyền tố tụng của mình.
Khắc phục những hạn chế đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không định danh chủ thể là “người bị hại” mà định danh chủ thể bị thiệt hại do hành vi của người phạm tội là “bị hại”, đồng thời quy định như sau: “Bị hại gồm cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản và cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”[3]. Quy định này xác định cụ thể, rõ ràng những chủ thể là bị hại trong vụ án hình sự, mở rộng phạm vi chủ thể bị hại không chỉ là cá nhân, mà còn bao gồm cả cơ quan, tổ chức (có hoặc không có tư cách pháp nhân), bảo đảm sự thống nhất trong xác định tư cách bị hại cũng như bảo đảm quyền lợi chính đáng của bị hại trong quá trình áp dụng pháp luật giải quyết vụ án hình sự.
Thứ hai, quy định một số quyền mới của bị hại
Quyền đưa ra chứng cứ của bị hại, bên cạnh quyền đưa ra tài liệu, đồ vật và yêu cầu như trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung thêm “bị hại có quyền đưa ra chứng cứ”. Quy định này phù hợp với quy định mới về chứng cứ[4], đồng thời mở rộng quyền của bị hại trong quá trình chứng minh người phạm tội, hành vi của người phạm tội, chứng minh những thiệt hại của mình là do hành vi phạm tội gây ra, thậm chí bị hại có thể chứng minh cả những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết quyền lợi của mình như việc giải quyết bồi thường thiệt hại.
Quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham gia phiên tòa. Có thể nói đây là quyền rất đặc biệt đối với bị hại, nếu như trước đây, bị hại chỉ tham gia phiên tòa một cách thụ động thể hiện qua quyền được trình bày ý kiến tại phiên tòa và thực tế xét xử mà chúng tôi quan sát qua một số vụ, thì bị hại cũng chỉ trình bày ý kiến khi chủ tọa phiên tòa hỏi, chủ tọa phiên tòa cũng chủ yếu hỏi về phần thiệt hại và yêu cầu bị hại trình bày ý kiến về mức bồi thường. Với quy định về quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham gia phiên tòa, Bộ luật Tố tụng hình sự đã trao quyền chủ động cho bị hại khi tham gia phiên tòa và nâng cao vị thế tố tụng của bị hại trong quá trình tham gia tố tụng nói chung và tham gia phiên tòa nói riêng. Đồng thời thông qua quyền này, bị hại có thể truy vấn những vấn đề mà bị hại đặt ra hoặc những nội dung, tình tiết của vụ án mà bị hại thấy rằng việc chứng minh còn chưa khách quan toàn diện ảnh hưởng đến lợi ích của bị hại.
Quyền nhờ người bảo vệ quyền lợi của mình. Bị hại là chủ thể bị hành vi của người phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín, vì vậy, quyền lợi trước tiên của bị hại khi tham gia tố tụng là được bồi thường thiệt hại, được bù đắp những tổn thất tinh thần mà họ phải gánh chịu do người phạm tội gây ra cho họ. Để bảo vệ được quyền lợi của mình (như quyền được bồi thường, được bù đắp tổn thất, được xin lỗi, cải chính công khai…), bị hại được tự tiến hành các hoạt động cụ thể như đưa ra mức bồi thường và chứng minh thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho mình cũng như yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp bảo đảm việc bồi thường. Tuy nhiên, trên thực tế việc tiến hành các hoạt động tự bảo vệ quyền lợi nói trên phải có các căn cứ và luận chứng rõ ràng mà không phải chủ thể bị hại nào cũng tiến hành một cách hiệu quả được, vì vậy, việc nhờ người khác có chuyên môn bảo vệ quyền lợi cho bị hại là cần thiết. Thực tế, việc nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho bị hại đã được linh hoạt thực hiện trong quá trình xét xử, nhưng về mặt quyền pháp lý thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chính thức quy định đây là quyền của bị hại để họ có thể lựa chọn hoặc là tự mình bảo vệ quyền lợi của mình hoặc là nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho mình.
Quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng. Đây là quyền mới được bổ sung đối với bị hại thể hiện vị trí và vai trò của bị hại khi họ tham gia tố tụng. Những quy định về quyền của người bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 phản ánh vai trò của bị hại chỉ thực sự được thể hiện trong giai đoạn xét xử, bởi khi đó, bị hại mới thực hiện yêu cầu Tòa án giải quyết quyền lợi của mình và thực chất vai trò này cũng tương đối mờ nhạt. Với quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng hình sự thì vai trò của bị hại đã được coi trọng hơn, theo quy định trên, họ có thể được tham gia vào một số hoạt động điều tra của cơ quan điều tra (trước đây bị hại chỉ có quyền được thông báo kết quả điều tra), bị hại cũng có thể tham gia vào hoạt động tố tụng Tòa án như đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham gia phiên tòa (như chúng tôi đã phân tích ở phần trên). Trên cơ sở quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng, bị hại chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình như họ có được thông tin từ cơ quan điều tra mà không phải chờ đến khi kết thúc điều tra, họ chủ động đưa ra câu hỏi và yêu cầu chủ tọa phiên tòa hỏi chứ không phải chờ đến khi chủ tọa đề nghị cho biết ý kiến. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức rằng việc tham gia một số hoạt động tố tụng của bị hại phải tuân thủ những điều kiện nhất định chẳng hạn như việc tham gia đó không ảnh hưởng đến tính khách quan, không gây khó khăn và cản trở đến hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân khi bị đe dọa. Bị hại trong tố tụng hình sự là chủ thể tham gia tố tụng có địa vị pháp lý độc lập, là một bên có quyền cáo buộc đối với bị can, bị cáo. Quyền cáo buộc của họ mang tính chất truy cứu trách nhiệm dân sự (trong trường hợp họ yêu cầu bồi thường thiệt hại, bồi hoàn tài sản hoặc những yêu cầu dân sự khác), thậm chí mang tính chất truy cứu trách nhiệm hình sự (trong trường hợp bị hại thực hiện quyền buộc tội trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại). Chính vì tính chất đối lập như vậy đối với bị can, bị cáo, bị hại có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị trực tiếp xâm hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Để bảo đảm an toàn cho bị hại, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thêm quyền rất thiết thực cho bị hại là họ được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ và người thân của họ khi họ nhận thấy thực sự có nguy cơ bị xâm hại hoặc có căn cứ cụ thể về những hành vi đe dọa họ nhằm gây sức ép hoặc cản trở quyền tố tụng của họ.
Bên cạnh những điểm mới bổ sung về quyền của bị hại, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục kế thừa và chỉnh lý một số quyền cơ bản khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị hại và phù hợp với yêu cầu thực tế hiện nay. Chẳng hạn như quyền đưa ra mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường, được chỉnh lý thành quyền đề nghị hình phạt, đưa ra mức bồi thường, biện pháp bảo đảm bồi thường5; quyền yêu cầu khởi tố của bị hại, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại đối với tội xâm phạm quyền tác giả như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003[6]...
Thứ ba, sửa đổi quy định về nghĩa vụ của bị hại theo hướng mở rộng và gắn với các biện pháp cưỡng chế nếu vi phạm nghĩa vụ
Ngoài những điểm mới về quyền của bị hại, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng sửa đổi một số nghĩa vụ của bị hại theo hướng mở rộng trách nhiệm của bị hại trong quá trình tham gia tố tụng, đồng thời gắn liền với đó là các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm nghĩa vụ của bị hại phải được thực thi trên thực tế.
Nghĩa vụ phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng7 đòi hỏi bị hại phải có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thể hiện trong các quyết định tố tụng. Với quy định hiện nay, bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải; nếu bị hại từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo, giám định, cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
2. Những yêu nhằm bảo đảm tính khả thi trong áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bảo vệ quyền lợi của bị hại
Với sự chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trong quy định về bị hại đã mở rộng quyền của bị hại và đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải bảo đảm các quyền đó khi áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, theo chúng tôi, để bảo đảm tính khả thi trong quá trình áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo vệ quyền của bị hại cần phải có văn bản hướng dẫn, giải thích rõ một số quyền cơ bản sau đây:
Một là, đối với quyền đưa ra mức bồi thường, các biện pháp bảo đảm việc bồi thường, cần phải hướng dẫn theo hướng mở rộng quyền và cụ thể hóa các biện pháp bảo đảm việc bồi thường. Quyền đưa ra mức bồi thường phải bao gồm các quyền được đưa ra một định mức cụ thể về tài sản được bồi thường, quyền yêu cầu về hình thức, phương thức bồi thường, quyền xác định các loại thiệt hại được bồi thường. Mặt khác, thực tế cho thấy, bị hại ít khi yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo đảm việc bồi thường. Điều này xuất phát từ việc bị hại không nắm được quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm việc bồi thường, chưa có hướng dẫn cụ thể về các biện pháp này. Trong Bộ luật Dân sự có quy định về các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ (như thế chấp, cầm cố, đặt cọc, ký quỹ, ký cược, bảo lãnh, tín chấp) nhưng những biện pháp này chỉ phù hợp với quan hệ hợp đồng, còn việc bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự là bồi thường ngoài hợp đồng. Vậy các biện pháp bảo đảm sẽ mang tính chất khác đó là xác định được tài sản của người đã gây ra thiệt hại và cần có các biện pháp để những tài sản đó sẽ được dùng để bồi thường cho người bị hại như phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, kê biên tài sản, hạn chế hoặc cấm việc chuyển nhượng tài sản trong một thời gian nhất định... Vì vậy, theo chúng tôi các biện pháp mang tính đặc thù nói trên phải được hướng dẫn mang tính thể chế hóa thành quyền của người bị hại để họ có cơ sở đề xuất với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe doa gây ra là bị hại trong vụ án và họ phải được bồi thường theo nguyên tắc ngang giá, đối với thiệt hại về tài sản, việc xác định và chứng minh đã có cơ sở. Tuy nhiên đối với những thiệt hại về uy tín của cơ quan, tổ chức, hiện nay chưa có căn cứ để xác định, vì vậy cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể thiệt hại về uy tín của cơ quan, tổ chức theo hướng đưa ra căn cứ xác định thiệt hại về uy tín, hình thức xâm hại đến uy tín, mức độ thiệt hại về uy tín, phương thức bồi thường và khắc phục hậu quả thiệt hại về uy tín.
Có thể nói quyền được bồi thường là quyền cơ bản nhất và quan trọng nhất của bị hại, bởi vì quyền này đáp ứng được mục đích, nhu cầu của họ khi tham gia tố tụng hình sự. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải được hướng dẫn cụ thể hóa mới bảo đảm tính khả thi khi áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bảo vệ quyền của bị hại.
Hai là, đối với quyền được tham gia các hoạt động tố tụng của bị hại. Đây là một quyền mới của bị hại thể hiện vị trí và vai trò của bị hại được chủ động hơn trong quá trình tham gia tố tụng hình sự để bảo vệ kịp thời quyền lợi của mình. Tuy nhiên, việc áp dụng quyền này trên thực tế sẽ rất khó khăn nếu không có hướng dẫn cụ thể bởi vì trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có rất nhiều các hoạt động tố tụng, trong đó có các hoạt động đặc thù mang tính chuyên môn, thậm chí là có những hoạt động mang tính bí mật (chưa thể công khai) để bảo đảm hiệu quả tố tụng. Mặt khác, có những hoạt động tố tụng, bị hại tham gia là cần thiết nhưng cũng có những hoạt động tố tụng bị hại không cần thiết phải tham gia. Vì vậy, chúng tôi thấy cần có quy phạm hướng dẫn quyền này cụ thể theo hướng trong từng giai đoạn tố tụng bị hại được tham gia vào những hoạt động tố tụng cụ thể nào, mức độ tham gia, hình thức tham gia và trách nhiệm nếu cản trở hoạt động tố tụng khi tham gia.
Ba là, về quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích khi bị đe dọa. Đây cũng là một quyền mới của bị hại được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong quyền này, người bị hại khi thấy bị đe dọa có thể chủ động yêu cầu để được cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm sự an toàn về thân thể và tài sản. Tuy nhiên, để áp dụng cần phải làm rõ các vấn đề sau: Tính chất nguy hiểm của sự đe dọa đến mức độ nào thì cần có sự bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào phải bảo vệ; cách thức bảo vệ như thế nào, bảo vệ về tài sản cần phải phối hợp với cơ quan, tổ chức nào.
Bị hại là chủ thể tham gia tố tụng hình sự, việc tham gia tố tụng của họ là nhằm bảo vệ, khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội xâm phạm. Mặt khác, sự tham gia của họ trong tố tụng hình sự là nhân tố góp phần quan trọng trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xác định sự thật khách quan của vụ án. Với sự chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trong quy định về bị hại đã đánh dấu một bước quan trọng về việc bảo đảm nâng cao quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, là cơ sở pháp lý để giải quyết toàn diện vụ án hình sự, kể cả các vấn đề dân sự phát sinh trong vụ án hình sự. Sự phân tích những điểm mới quy định về bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và đặt ra những yêu cầu bảo đảm tính khả thi có ý nghĩa nhận thức và xác định đúng tư cách của bị hại trong tố tụng hình sự, bảo đảm những quyền tố tụng của bị hại được thực thi trên thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả của việc giải quyết vụ án hình sự bảo đảm tính khách quan, chính xác, kịp thời và toàn diện.
ThS. Ngô Quang Cảnh
Đại học Cảnh sát nhân dân
Tài liệu tham khảo:
[1]. Vũ Gia Lâm “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam” – Tạp chí Luật học số 11 năm 2011, tr. 29.
[2]. Lê Nguyên Thanh “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học, tr. 27.
[3]. Khoản 1 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[4]. Xem Điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[5]. Xem điểm g, khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[6]. Xem khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Khoản 1 Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
[7]. Xem khoản 4 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.