Abstract: The article is concerned with new points of regulations on supervising accused person under 18 years in the Criminal Code of 2015 compared to the Criminal Code of 2003.
1. Những điểm mới về giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Thứ nhất, bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
Ngoài việc quy định cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như quy định tại Điều 304 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì quy định tại khoản 1 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có quyền ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
Thứ hai, quy định rõ ràng hơn nhiệm vụ của người giám sát
Nếu như khoản 2 Điều 304 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chỉ quy định: Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó thì khoản 2 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ ràng hơn như sau: Trường hợp người dưới 18 tuổi có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội thì người được giao nhiệm vụ giám sát phải kịp thời thông báo và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Quy định này của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhằm đảm bảo việc áp dụng biện pháp giám sát chặt chẽ hơn người bị buộc tội dưới 18 tuổi được hiệu quả, đúng mục đích; đồng thời ngăn chặn kịp thời những hành vi tiêu cực, cản trở việc giải quyết vụ án do người bị buộc tội dưới 18 tuổi thực hiện.
Thứ ba, mở rộng đối tượng người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Theo Điều 304 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì người được giao nhiệm vụ giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội là cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ. Nhưng Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì mở rộng hơn đối tượng người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi là người đại diện hợp pháp của họ. Theo đó, người đại diện của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi được xác định theo thứ tự sau đây: Cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, người giám hộ và người do Tòa án chỉ định.
2. Về người giám sát của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định cụ thể về người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi gồm những ai. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (Thông tư liên tịch số 06/2018) thì có quy định như sau: Người đại diện của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định tại các điều 134, 135 và 136 Bộ luật Dân sự và được xác định theo thứ tự sau đây: (1) Cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; (2) Người giám hộ; (3) Người do Tòa án chỉ định.
2.1. Về người giám hộ của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
Người giám hộ của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bao gồm người giám hộ đương nhiên hoặc người được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người dưới 18 tuổi cư trú cử hoặc Tòa án chỉ định theo quy định tại các điều 46, 47, 48, 52 và 54 Mục 4 Chương III Bộ luật Dân sự năm 2015.
Một là, về người giám hộ đương nhiên của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trường hợp người bị buộc tội dưới 18 tuổi không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ hoặc người bị buộc tội dưới 18 tuổi có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ thì có người giám hộ đương nhiên. Người giám hộ đương nhiên của người bị buộc tội dưới 18 tuổi được xác định quy định tại Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo thứ tự sau:
(i) Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.
(ii) Trường hợp không có người giám hộ theo thứ tự thứ nhất thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ.
(iii) Trường hợp không có người giám hộ như hai trường hợp trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
Hai là, về người giám hộ của người bị buộc tội dưới 18 tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã cử
Trường hợp người bị buộc tội dưới 18 tuổi không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ hoặc người bị buộc tội dưới 18 tuổi có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ mà không có người giám hộ đương nhiên thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người chưa thành niên có trách nhiệm cử người giám hộ cho họ theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngoài ra, trường hợp có tranh chấp về việc cử người giám hộ của người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ.
Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ. Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ. Trường hợp cử người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người chưa thành niên.
Ba là, về người giám hộ của người bị buộc tội dưới 18 tuổi được Tòa án chỉ định
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khi có sự tranh chấp về người giám hộ giữa những người giám hộ đương nhiên của người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ. Đối với người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì khi Tòa án chỉ định người giám hộ cho họ phải xem xét nguyện vọng của người này.
2.2. Về người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi do Tòa án chỉ định
Theo khoản 3 Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trong trường hợp không xác định được người đại diện là cha mẹ của người bị buộc tội dưới 18 tuổi, người giám hộ cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi (bao gồm người giám hộ đương nhiên, người giám hộ do Ủy ban nhân dân cấp xã cử hoặc do Tòa án chỉ định) thì Tòa án chỉ định người đại diện cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
3. Thẩm quyền ra quyết định giao người bị buộc tội dưới 18 tuổi để giám sát và thẩm quyền thay đổi người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi
3.1. Về thẩm quyền ra quyết định giao người bị buộc tội dưới 18 tuổi để giám sát
Theo quy định tại khoản 1 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Cụ thể:
- Trong giai đoạn điều tra thì điều tra viên là người có quyền ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện giám sát (theo điểm đ khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Mẫu quyết định giao người bị buộc tội cho đại diện giám sát được ban hành kèm theo Thông tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an.
- Trong giai đoạn truy tố thì kiểm sát viên là người có quyền ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi để giám sát (theo điểm h khoản 1 Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Mẫu quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi để giám sát được ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Trong giai đoạn xét xử thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa không có quyền ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi để giám sát vì không được quy định tại Điều 45 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Thay vào đó, Chánh án Tòa án là người có quyền ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi để giám sát (theo điểm đ khoản 2 Điều 44 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Về mẫu quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi để giám sát thì hiện nay Tòa án nhân dân tối cao chưa ban hành.
Quyết định giao người bị buộc tội dưới 18 tuổi để giám sát phải được gửi ngay cho người đại diện được giao nhiệm vụ giám sát theo quy định tại Điều 11 Thông tư liên tịch số 06/2018.
3.2. Về thẩm quyền thay đổi người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người có thẩm quyền thay đổi người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi như sau:
- Trong giai đoạn điều tra thì điều tra viên là người có quyền ra quyết định thay đổi người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi (theo điểm đ khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
- Trong giai đoạn truy tố thì kiểm sát viên là người có quyền ra quyết định thay đổi người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi (theo điểm h khoản 1 Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
- Trong giai đoạn xét xử thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người có quyền ra quyết định thay đổi người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi (theo điểm e khoản 2 Điều 45 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
4. Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Thứ nhất, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2018 thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, cân nhắc áp dụng biện pháp giám sát trước khi quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn. Khi người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi đã được áp dụng biện pháp giám sát, biện pháp ngăn chặn khác ngoài biện pháp tạm giam nhưng bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã, có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, có dấu hiệu tiếp tục phạm tội hoặc có các hành vi khác quy định tại khoản 2 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được quyền áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo quy định tại khoản 1 Điều 419 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Thứ hai, cũng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2018 thì người đại diện được giao nhiệm vụ giám sát có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức khác có liên quan trong việc giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi; nếu phát hiện người bị buộc tội dưới 18 tuổi có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có các hành vi khác quy định tại khoản 2 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì phải kịp thời ngăn chặn và thông báo ngay bằng điện thoại hoặc hình thức khác nhanh nhất cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để phối hợp xử lý.
Thứ ba, việc giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện giám sát cần dựa trên các yếu tố: Tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, lứa tuổi, tình hình sức khỏe, tiền án, tiền sự của người dưới 18 tuổi, khả năng giám sát, giáo dục của người đại diện của họ. Vì biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi không phải là quy định bắt buộc mà chỉ nhằm đảm bảo sự có mặt của người bị buộc tội khi được cơ quan có thẩm quyền triệu tập.
5. Một số vướng mắc cần được hướng dẫn
Nghiên cứu quy định về biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi và biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú thì thấy rằng, mục đích của biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi theo Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là để bảo đảm sự có mặt của người bị buộc tội dưới 18 tuổi khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Còn mục đích của biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Như vậy, mục đích của hai biện pháp này là giống nhau. Tuy nhiên, vấn đề là biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi có được áp dụng đồng thời với biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú không thì thực tiễn vẫn còn vướng mắc do nhận thức còn khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, khi cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng biện pháp giám sát người bị buộc tội thì không được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bởi vì khoản 1 Điều 419 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định như sau: “Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả” và khoản 1 Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2018 quy định như sau: “Trước khi quyết định áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, cân nhắc áp dụng biện pháp giám sát, cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn xuất cảnh quy định tại Điều 123, Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự”. Như vậy, qua các quy định này thì có thể thấy biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi và biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú là hoàn toàn độc lập với nhau. Cho nên khi đã áp dụng biện giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì không cần thiết phải áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi và biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú có mục đích tương tự nhau nhưng cách thức thực hiện, quyền và nghĩa vụ của những người liên quan là khác nhau như: Bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú thì phải làm cam đoan thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; nếu bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú vi phạm nghĩa vụ thì bị tạm giam. Còn biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi có quy định nghĩa vụ của người đại diện được giao nhiệm vụ giám sát. Trường hợp người đại diện được giao nhiệm vụ giám sát vi phạm nghĩa vụ giám sát mà để người bị buộc tội dưới 18 tuổi bỏ trốn hoặc thực hiện các hành vi khác quy định tại khoản 2 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự thì tùy tính chất, mức độ vi phạm có thể bị thay đổi hoặc bị xử lý theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, biện pháp giám sát người bị buộc tội không phải là một trong các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Cho nên, khi áp dụng biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Những vướng mắc trên đây rất cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn hoặc giải đáp để việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn được thống nhất.
Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh