Thứ hai 16/06/2025 19:54
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật và phạm tội của người dưới 18 tuổi đã và đang là vấn đề thời sự. Đòi hỏi Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể phải có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa để ngăn chặn

Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật và phạm tội của người dưới 18 tuổi đã và đang là vấn đề thời sự. Đòi hỏi Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể phải có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này. Hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi thường bồng bột, thiếu suy nghĩ, thậm chí không cần suy nghĩ về hậu quả. Người dưới 18 tuổi là đối tượng còn đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, non nớt về nhận thức và tinh thần, nên dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống, đây là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt. Áp dụng các biện pháp xử lý đối với dưới 18 tuổi phạm tội như thế nào để vừa đảm bảo hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của xã hội, đồng thời bảo đảm yêu cầu, mục đích lấy giáo dục làm chính với đối tượng này là một vấn đề rất lớn cần phải nghiên cứu sâu sắc.

Trong bài viết tác giả bàn luận đến những bất cập trong quy định của Bộ luật Ttụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi và đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.

1. Thực trạng người dưới 18 tuổi phạm tội và các quy định của pháp luật hình sự

Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật và phạm tội của người dưới 18 tuổi đã và đang là vấn đề thời sự, đòi hỏi Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể phải có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này. Áp dụng các biện pháp xử lý đối với dưới 18 tuổi phạm tội như thế nào để vừa đảm bảo hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của xã hội, đồng thời bảo đảm yêu cầu, mục đích lấy giáo dục làm mục tiêu chính với đối tượng này là một vấn đề rất lớn cần phải nghiên cứu sâu sắc. Tuy nhiên, tình hình người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật ngày càng nhiều với tính chất và thủ đoạn nguy hiểm. Từ năm 2017 đến nay, cả nước phát hiện gần 3.000 người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật. Trong đó, nam giới chiếm 96,4%, nữ giới chiếm hơn 3,6%. Số vụ án do người dưới 18 tuổi gây ra chiếm 20% so với tổng số vụ vi phạm pháp luật hình sự trong toàn quốc. Địa phương xảy ra nhiều nhất là TP. Hồ Chí Minh (hơn 784 vụ), Đồng Nai (hơn 200 vụ), tiếp đến là các tỉnh Khánh Hòa, Đắk Lắk... một số loại án tăng cao là “cướp giật tài sản” chiếm 63,85%; giết người tăng 38,7% về số người vi phạm pháp luật. Trong đó, số trẻ em vi phạm pháp luật ở độ tuổi 16 - 18 chiếm đến 67,1%[1]. Tiến hành nghiên cứu điển hình tại TP. Hồ Chí Minh từ năm 2017 đến năm 2019, các cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý 59 vụ đối tượng thực hiện hành vi phạm tội trong độ tuổi từ 14 đến 16 tuổi; 690 vụ trong độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi. Các cơ quan chức năng đã tiến hành khởi tố 624/784 đối tượng chiếm tỉ lệ 79,5% trong tổ số đối tượng đã được phát hiện, xử lý. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì việc áp dụng trường hợp bắt người phạm tội quả tang chiếm tỷ lệ cao nhất 339/784 (43,2%); sau đó đến trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp 166/784 (21,1%); áp dụng trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam chiếm tỷ lệ thấp hơn 132/784 (16,8%); cuối cùng là đến trường hợp bắt người đang bị truy nã 17/784 (2,1%). Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác không tước tự do 211/784 (26,9%)[2]. Như vậy, nhóm các biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng nhiều nhất trong thời gian qua đó là: Các biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam chiếm tỉ lệ áp dụng cao hơn so với một số các biện pháp không tước tự do cho phép tại ngoại (cấm đi khỏi nơi cư trú, bão lĩnh…).

Người dưới 18 tuổi là đối tượng còn đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, non nớt về nhận thức và tinh thần, nên dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống. Hành vi của người dưới 18 tuổi thường bồng bột, thiếu suy nghĩ, thậm chí không cần suy nghĩ về hậu quả. Đây là đối tượng được bảo vệ đặc biệt, nên Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã dành một chương riêng biệt đối với người dưới 18 tuổi với các quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với họ tại Chương VII, gồm có: 17 điều quy định về các biện pháp ngăn chặn[3]. Thực tế cho thấy áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi không phải là một biện pháp tốt nhất bởi sẽ làm cho họ trở nên chai sạn, lỳ lợm hơn khi cảm thấy xã hội không khoan dung. Mặc cảm đó không dễ gì xóa được trong suy nghĩ, nhận thức còn non nớt của họ. Do đó, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải thận trọng và chỉ áp dụng khi đó là biện pháp cuối cùng. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được quy định tại khoản 2 Điều 110; khoản 1 Điều 113 trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi trong những trường hợp thật sự cần thiết theo quy định tại Điều 419 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015[4] nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội dưới 18 tuổi sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án[5]. Các biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh, áp giải. Riêng các trường hợp bắt người sẽ bao gồm: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

2. Một số bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi

Thứ nhất, về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi

Biện pháp ngăn chặn chỉ được thực hiện đối với người bị buộc tội trong trường hợp thật cần thiết[6]. Nhưng những trường hợp nào là cần thiết thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa giải thích rõ. Vấn đề này phụ thuộc rất lớn vào ý chí, quan điểm của người tiến hành tố tụng. Bởi vì, trong thực tiễn nếu vừa thỏa mãn điều kiện biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, vừa thỏa mãn điều kiện của một số biện pháp khác không tước tự do thì cơ quan chức năng vì bảo đảm quá trình tiến hành tố tụng được diễn ra thuận lợi sẽ áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Chính vì quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa rõ ràng nên thực tế đã có những trường hợp ưu tiên áp dụng tạm giữ, tạm giam như là một vấn đề bảo đảm người bị buộc tội dưới 18 tuổi không bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với người dưới 18 tuổi: Theo quy định tại Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có 03 trường hợp được áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp[7]. Tuy nhiên, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 110 để giữ người dưới 18 tuổi trong trường hợp khẩn cấp chưa đảm bảo sự tương thích giữa Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)[8]. Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất định[9]. Đồng thời, hành vi chuẩn bị phạm tội của người từ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự khi vi phạm quy định tại Điều 123, Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mới được áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được cụ thể trong quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi dẫn đến trong thực tiễn có thể bị lạm dụng. Một người thực hiện hành vi không bị coi là tội phạm, không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì cơ quan có thẩm quyền không thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Thứ hai, biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi

Đây là biện pháp được áp dụng rất nhiều trong thực tế. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này còn một số vấn đề bất cập so với quy định phân loại tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Khoản 4 Điều 419 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Đối với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”. Như vậy, đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi chỉ có thể được áp dụng khoản 4 Điều 419 khi mà quy định hình phạt tù đến 02 năm; còn từ 02 năm đến 03 năm của tội ít nghiêm trọng sẽ được áp dụng theo quy định chung về biện pháp ngăn chặn như người đủ 18 tuổi, quy định này không hợp lý về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi. Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội ít nghiêm trọng có khung hình phạt đến 03 năm tù[10]. Do đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có chưa có sự đồng nhất.

Thứ ba, thời hạn biện áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi

Để bảo đảm sự phát triển toàn diện của trẻ em, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã phân hóa độ tuổi để xác định trách nhiệm hình sự (14 tuổi đến dưới 16 tuổi; 16 tuổi đến dưới 18 tuổi). Tuy nhiên, đoạn 2 khoản 1 Điều 419 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi nhưng lại không phân hóa độ tuổi để tương tích với Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp đối với người dưới 18 tuổi. Chính vì vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định chung tại khoản 1 Điều 419 về thời hạn tạm giam cho đối tượng dưới 18 tuổi “bằng 2/3” đối với người từ 18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, quy định thời gian tạm giam “bằng 2/3” đối với người đủ 18 tuổi rất dễ dẫn đến hiểu sai và áp dụng sai.

Về thời gian tạm giữ, khoản 1 điều này không điều chỉnh về thời gian tạm giữ, cũng như gia hạn tạm giữ nên dẫn đến người dưới 18 tuổi khi bị áp dụng biện pháp tạm giữ giống như người đủ 18 tuổi trở lên theo tác giả là chưa hợp lý và không có sự phân biệt giữa người đủ 18 tuổi và dưới 18 tuổi khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn.

Khi không còn căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác đối với người dưới 18 tuổi. Nhưng quy định này lại chưa nói đến biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi có được gia hạn hay không đã dẫn đến người dưới 18 tuổi có thể tiếp tục bị gia hạn tạm giữ, tạm giam theo quy định tại các Điều 117, Điều 118, Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Ngoài ra, trong quy định thời hạn tạm giữ tại khoản 2 Điều 118 vẫn chưa rõ ràng trong trường hợp phải gia hạn tạm giữ “Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày. Trường hợp đặc biệt người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày”. Với quy định này kết hợp với quy định tại Điều 419 thì hiểu như thế nào “trường hợp cần thiết” và “trường hợp đặc biệt” để gia hạn tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi.

3. Một số kiến nghị

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định các “biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế” có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhưng đây là hoạt động khá nhạy cảm, dễ xảy những hành vi xâm hại từ phía những người có thẩm quyền nhất là khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. Để khắc phục những hạn chế nêu trên đồng thời, bảo đảm cơ chế triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, bảo đảm quyền tự do công dân, tác giả có một số đề xuất, kiến nghị sửa đổi một số quy định về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế như sau:

Một là, ban hành văn bản hướng dẫn trong những trường hợp nào là cần thiết có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người dưới 18 tuổi

Theo đó, có thể liệt kê một số hành vi cụ thể của người bị buộc tội dưới 18 tuổi, cần thiết phải áp dụng như: Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; có dấu hiệu bỏ trốn, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; tiếp tục phạm tội hoặc có chuẩn bị phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội.

Hai là, sửa đổi Điều 419 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Chỉ áp dụng biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi khi có căn cứ xác định áp dụng các biện pháp khác không hiệu quả. Đồng thời, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đã xác minh có một trong những căn cứ: Không có nơi cư trú rõ ràng; không có người thân, người giám hộ, người đại diện theo quy định của pháp luật; nhân thân xấu; tội phạm thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Thời hạn tạm giam đối với người từ 14 đến dưới 16 tuổi không quá 1/2 thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên.

Thời hạn tạm giam đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi không quá 2/3 thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên.

Khi không còn căn cứ để tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác. Khi đã hết thời gian tạm giam không được tiếp tục gia hạn tạm giam trừ trường hợp thuộc khoản 1 điều này. Việc gia hạn tạm giam không được quá tổng 1/2 thời hạn điều tra, gia hạn điều tra đối với người từ 14 đến dưới 16 tuổi và không được quá 2/3 thời gian điều tra, gia hạn điều tra đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi.

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12, khoản 3 Điều 14 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nếu có căn cứ quy định tại các điều 110, 111 và 112, các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 của Bộ luật này. Sau khi hết thời gian tạm giữ không được gia hạn tạm giữ, trừ các trường hợp được quy định tại khoản 1 điều này và Điều 118 Bộ luật này. Tổng thời gian tạm giữ không vượt quá 1/2 thời hạn tạm giữ đối với người đủ 18 tuổi trở lên.

Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu có căn cứ quy định tại các điều 110, 111 và 112, các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 của Bộ luật này. Sau khi hết thời gian tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ theo quy định tại Điều 118 Bộ luật này nhưng tổng thời gian tạm giữ không vượt quá 2/3 thời hạn tạm giữ đối với người đủ 18 tuổi.

Ba là, sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 118 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về các trường hợp gia hạn thời hạn tạm giữ.

Trường hợp cần thiết cần có thời gian để xác minh căn cước, lai lịch, xác minh làm rõ dấu hiệu phạm tội của người bị bắt thì người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày khi người bị tạm giữ có dấu hiệu phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cần có thêm thời gian xác minh hoặc các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã mà thời gian gia hạn tạm giữ lần 01 chưa đủ để cơ quan ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

TS. Lê Tiến Hoàng

NCS. Trịnh Duy Thuyên

Đại học Cảnh sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh



[1]. Bộ Công an - Văn Phòng Bộ, Báo cáo sơ kết Chuyên đề người chưa thành niên vi phạm pháp luật, ngày 10/11/2019.

[2]. Công an TP. Hồ Chí Minh (Phòng Cảnh sát hình sự), Báo cáo tổng kết từ năm 2017 đến năm 2019.

[3]. Xem: Chương VII Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[4]. Khoản 1 Điều 419 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 “chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp cần thiết”.

[5]. Xem Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[6]. Khoản 1 Điều 149 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[7]. Khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 “a. Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; b. Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; c. Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ”.

[8]. Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) “người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật Hình sự thì phải chịu trách nhiệm”.

[9]. Xem: Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[10]. Xem: Khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm