Chủ nhật 14/12/2025 04:41
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền và hậu quả pháp lý theo pháp luật dân sự

Bài viết phân tích về trường hợp đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự và chỉ ra hậu quả pháp lý của việc đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền.


1. Phạm vi ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền

1.1. Phạm vi ủy quyền

Phạm vi ủy quyền là một khái niệm nhỏ trong phạm vi đại diện nói chung, khi nói đến phạm vi ủy quyền tức là chỉ xem xét phần phạm vi đại diện trong loại hình đại diện theo ủy quyền. Phạm vi ủy quyền được thể hiện rõ ràng trong nội dung ủy quyền, nó là giới hạn mà người được ủy quyền hành động để đem lại quyền và nghĩa vụ cho bên ủy quyền. Giới hạn này có thể được xác định bởi yếu tố số lượng công việc và/hoặc tính chất công việc, thời gian thực hiện công việc ủy quyền. Điều đặc biệt là, không có một quy chuẩn nào để xác định chính xác phạm vi ủy quyền mà phải dựa vào nội dung ủy quyền. Bên cạnh đó, nội dung ủy quyền lại phụ thuộc phần lớn vào ý chí của bên ủy quyền, nếu ý chí của bên ủy quyền được xác định rõ ràng, thì việc thực hiện công việc của bên được ủy quyền cũng thuận tiện hơn và nếu bên thứ ba biết được phạm vi ủy quyền cũng sẽ dễ dàng hiểu và kiểm soát được hành vi của mình cũng như của bên ủy quyền, giúp các bên đảm bảo lợi ích của mình một cách tối đa. Ngược lại, nếu phạm vi ủy quyền được thể hiện một cách chung chung, không rõ ràng sẽ gây khó khăn cho bên được ủy quyền khi xác định giới hạn hành động. Điều này cũng gây khó khăn cho cả bên thứ ba trong việc hiểu rõ ý định của bên ủy quyền nếu họ được thông báo. Do phạm vi ủy quyền là vấn đề thuộc mối quan hệ pháp lý bên trong của quan hệ đại diện theo ủy quyền, nên nó không có giá trị ràng buộc bên thứ ba trong giao dịch. Hay nói cách khác, nó chỉ có giá trị ràng buộc giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Như vậy, phạm vi ủy quyền là giới hạn quyền đại diện mà người được ủy quyền được phép xác lập, thực hiện giao dịch nhân danh người ủy quyền, phạm vi ủy quyền được xác định theo nội dung ủy quyền. Thực tế, người được ủy quyền chỉ được hành động trong phạm vi mà người ủy quyền giao cho, khi họ hành động vượt quá phạm vi cho phép, thì bên ủy quyền không bị ràng buộc bởi những hành vi mà bên được ủy quyền thực hiện, tức là người được ủy quyền hành động không có sự chấp thuận của bên ủy quyền.

1.2. Đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền

Đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền là việc người được ủy quyền thực hiện hành vi pháp lý vượt quá phạm vi ủy quyền được cho phép. Vấn đề người đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền cũng được quy định rõ trong pháp luật của nhiều quốc gia, cụ thể: Pháp luật dân sự Nhật Bản cũng thừa nhận hành vi đại diện vượt quá thẩm quyền đại diện nằm trong đại diện theo suy đoán bên ngoài khi và chỉ khi có căn cứ hợp lý để bên thứ ba tin rằng người đại diện thực hiện việc đại diện trong phạm vi ủy quyền của mình. Căn cứ hợp lý được đánh giá dựa trên khả năng của một người bình thường với sự quan tâm đến vấn đề giao dịch, thông qua người đại diện có thể nhận thức được hành vi của người được ủy quyền có hay không vượt ra ngoài phạm vi được cho phép[1]. Pháp luật của Pháp còn dựa trên thuyết phê chuẩn (ratification) và trách nhiệm của người đại diện không có thẩm quyền (the liability of the falsus procurator) để xem xét việc chấp thuận hành vi đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền[2].

Pháp luật Hoa Kỳ chia người ủy quyền thành ba loại: (i) Người ủy quyền công khai (tức là tại thời điểm người được ủy quyền giao dịch với bên thứ ba, bên thứ ba biết về người ủy quyền và sự ủy quyền); (ii) Người ủy quyền bán công khai (tức là tại thời điểm người được ủy quyền giao dịch với bên thứ ba nhưng bên thứ ba chỉ biết về việc người ủy quyền hành động nhân danh người khác, họ không biết người này là ai); (iii) Người ủy quyền không công khai (tức là tại thời điểm giao dịch, bên thứ ba không biết sự ủy quyền cũng như người ủy quyền)[3]. Mặc dù có phân chia người ủy quyền, nhưng khi xét về việc đại diện không có ủy quyền hay đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền, pháp luật Hoa Kỳ không phân biệt các trường hợp trên, hay nói cách khác, việc xem xét trách nhiệm của các bên khi giao dịch mà không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi ủy quyền không phụ thuộc vào vấn đề người ủy quyền là công khai, bán công khai hoặc không công khai. Hậu quả pháp lý chung của hành vi đại diện không có ủy quyền, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền là không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người ủy quyền.

Theo pháp luật Việt Nam, đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền không được quy định riêng biệt trong Bộ luật Dân sự, nó là một phần của các quy định về đại diện vượt quá phạm vi đại diện. Đối với đại diện theo ủy quyền, việc xác định phạm vi ủy quyền phụ thuộc vào nội dung ủy quyền và người được ủy quyền chỉ có quyền thực hiện các công việc trong phạm vi ủy quyền. Khi họ thực hiện các công việc không nằm trong nội dung được ủy quyền được coi là đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền.

1.3. Đặc điểm của đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền

Thứ nhất, có căn cứ phát sinh quan hệ đại diện: Đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền mang đặc điểm chung của đại diện, đó là có căn cứ phát sinh quan hệ đại diện. Khi vấn đề hành động vượt quá phạm vi ủy quyền được đặt ra, thì trước đó, giữa người ủy quyền và người được ủy quyền đã tồn tại mối quan hệ pháp lý bên trong, tức là, giữa họ đã có sự ủy quyền làm căn cứ phát sinh quan hệ đại diện. Đây là đặc điểm không thể thiếu của đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền, vì nếu không có căn cứ phát sinh quan hệ đại diện, thì người được ủy quyền ở đây lại được xem xét như người không có quyền đại diện và nếu không có sự ủy quyền, chúng ta cũng không biết được phạm vi ủy quyền để xem xét việc người được ủy quyền có hành động vượt quá phạm vi được người ủy quyền cho phép hay không.

Thứ hai, người được ủy quyền hành động nhân danh người ủy quyền: Dù hành động vượt quá phạm vi ủy quyền nhưng người được ủy quyền vẫn hành động dưới danh nghĩa của người ủy quyền. Thông thường, người được ủy quyền hành động nhân danh người ủy quyền trong phạm vi ủy quyền, tuy nhiên, vì một lý do nào đó, người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện hành động nhân danh người ủy quyền nhưng những công việc đó không nằm trong phạm vi được ủy quyền. Đặc điểm “hành động nhân danh người ủy quyền” là điều kiện không thể thiếu để xem xét hành vi đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền. Nếu người được ủy quyền hành động không nhân danh người được ủy quyền, thì không thể xem xét việc đại diện trong giao dịch.

Thứ ba, người được ủy quyền hành động vượt quá phạm vi ủy quyền: Đặc điểm cuối cùng của việc đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền chính là việc người được ủy quyền hành động ngoài phạm vi ủy quyền được cho phép. Như đã phân tích, người được ủy quyền chỉ được phép hành động trong phạm vi người ủy quyền cho phép. Việc họ hành động vượt quá giới hạn hầu như không được pháp luật các quốc gia công nhận, nhưng pháp luật có tính mềm dẻo và công bằng, do vậy, hành vi đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền sẽ được xem xét chấp thuận hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết, hành vi đó phải có đặc điểm này, nếu hành vi không có đặc điểm vượt quá phạm vi ủy quyền, nó có thể được xem xét dưới góc độ pháp lý khác.

2. Hậu quả pháp lý của đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền

Trên nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích của người được đại diện, các hành vi đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với bên được đại diện. Tuy nhiên, nếu áp dụng nguyên tắc này một cách tuyệt đối sẽ làm cho giao dịch dân sự thông qua đại diện trở nên bất ổn, các bên trong giao dịch dân sự sẽ trở nên dè chừng hơn vì lợi ích của mình luôn bị đe dọa bởi đặc tính của quan hệ đại diện có những nội hàm thuộc về mối quan hệ pháp lý bên trong, khiến bên thứ ba không thể tiếp cận và lường trước được rủi ro hoặc khi hành vi đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền diễn ra mà không phải do lỗi của bên thứ ba và quyền lợi giữa các bên trong giao dịch xảy ra xung đột. Thực tế cho thấy, quyền lợi của bên thứ ba cũng đáng được bảo vệ như quyền lợi của các bên còn lại.

Theo pháp luật Việt Nam, hậu quả pháp lý của việc đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền nằm trong quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Theo Bộ luật Dân sự năm 2015: “Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: (a) Người được đại diện đồng ý; (b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; (c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện”[4].

Thực hiện hành vi vượt quá phạm vi ủy quyền là một trong các yếu tố vi phạm điều kiện của quan hệ đại diện và đương nhiên nó không thể đem lại hậu quả pháp lý tương tự như quan hệ đại diện theo ủy quyền. Bên cạnh đó, pháp luật đã dự liệu các tình huống có thể xảy ra, trên cơ sở sự tự do ý chí của các bên, nếu người ủy quyền đồng ý hoặc biết mà không từ chối thì đó được coi là hành vi chấp thuận quan hệ đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền, sự chấp thuận đó kéo theo hậu quả pháp lý tương tự như đại diện theo ủy quyền. Mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người được ủy quyền xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi ủy quyền đều có giá trị ràng buộc người được đại diện. Đây có thể là một quy định khá mở, trong giao dịch được xác lập, thực hiện bởi người đại diện không có ủy quyền, nếu bên thứ ba thông báo đến người được đại diện hoặc người đại diện hợp pháp, dựa trên thông báo đó, người được đại diện hoặc người đại diện hợp pháp của họ chấp thuận thì mới phát sinh hậu quả pháp lý tương tự như đại diện theo ủy quyền. Nếu không có sự chấp thuận, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đó không có giá trị ràng buộc người được đại diện. Quy định này dường như đã đặt người ủy quyền vào vị thế trọng tâm của mối quan hệ, buộc người ủy quyền phải có trách nhiệm quản lý việc ủy quyền của mình, cẩn trọng hơn trong việc ủy quyền; điểm đặc biệt, quy định này đã phần nào bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba ngay tình. Như đã phân tích, việc ủy quyền là mối quan hệ pháp lý bên trong giữa người ủy quyền và người được ủy quyền, mặc dù pháp luật Việt Nam buộc người được ủy quyền phải thông báo về nội dung, phạm vi ủy quyền đến bên thứ ba trước khi thực hiện giao dịch, nhưng dù có được thông báo hay không, bên thứ ba vẫn là bên tiếp nhận thụ động các thông tin đó, sự trung thực của người được ủy quyền là yếu tố quan trọng hơn cả vì nếu người được ủy quyền cố tình hoặc vô tình thông báo không đầy đủ khiến bên thứ ba tin tưởng mà thực hiện giao dịch và hứng chịu hậu quả thì rõ ràng quyền lợi của bên thứ ba đang bị đe dọa và họ cần được bảo vệ.

Thông thường, hầu hết pháp luật dân sự các nước không tách biệt hậu quả pháp lý của việc đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền và đại diện không có ủy quyền hay nhìn nhận rộng ra là đại diện vượt quá phạm vi đại diện và đại diện bởi người không có quyền đại diện như pháp luật dân sự Việt Nam. Thay vào đó, họ quy định chung về hậu quả pháp lý của vấn đề này và tập trung vào việc quy định cách thức để nhận biết những hành vi đại diện vượt quá phạm vi đại diện, đại diện bởi người không có quyền đại diện làm phát sinh hậu quả pháp lý tương tự đại diện.

ThS. Trần Thị Quỳnh Châu

Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh





[1]. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng dịch ra tiếng Việt, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 161.

[2]. Cambridge University (2009), The Unauthorised agent Perspectives from European and Comparative Law, Cambridge University Press, New York, USA, tr. 44.

[3]. Hồ Ngọc Hiển (2007), “Nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 3/2007), tr. 57 - 66.

[4]. Điều 143 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: