Thứ sáu 20/06/2025 10:11
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Giải quyết ly hôn hay không công nhận quan hệ vợ chồng trong trường hợp không còn giấy tờ xác nhận sự tồn tại của quan hệ hôn nhân

Giải quyết ly hôn hay không công nhận quan hệ vợ chồng trong trường hợp không còn giấy tờ xác nhận sự tồn tại của quan hệ hôn nhân

Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả phân tích căn cứ ly hôn, không công nhận quan hệ vợ chồng, vấn đề giải quyết yêu cầu ly hôn khi mất giấy chứng nhận kết hôn qua ví dụ thực tiễn và đưa ra một số kiến nghị.

Abstract: In this article, the author analyzes the grounds for porce, non-recognition of the husband-and-wife relationship, the issue of resolving the porce request when the marriage certificate is lost through practical examples and makes some recommendations.

1. Thực tiễn giải quyết của Tòa án trong trường hợp các bên yêu cầu ly hôn nhưng không còn giấy tờ xác nhận sự tồn tại của quan hệ hôn nhân

Trong thực tiễn xét xử, có những trường hợp các đương sự khi nộp đơn yêu cầu ly hôn trình bày là có đăng ký kết hôn nhưng họ đã làm mất giấy chứng nhận kết hôn (GCNKH). Họ đã đến Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi đăng ký kết hôn để yêu cầu cấp trích lục kết hôn nhưng UBND cấp xã trả lời rằng do sổ hộ tịch của xã đã bị mất hoặc không còn lưu hồ sơ nên không thể xác nhận việc đăng ký kết hôn của họ. Trong những trường hợp này, các Tòa án đã có hướng giải quyết khác nhau. Tác giả đưa ra hai vụ án điển hình về vấn đề này.

Trường hợp thứ nhất: Anh A và chị B tổ chức đám cưới vào năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện N, tỉnh N nhưng GCNKH đã mất. Nay anh chị có yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tại biên bản xác minh ngày 26/6/2019, UBND xã S xác nhận anh A và chị B chung sống với nhau từ năm 1994 và hiện nay UBND không còn sổ lưu về việc đăng ký kết hôn này. Tòa án đã tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh A và chị B[1].

Trường hợp thứ hai: Trong đơn ly hôn, anh Q và chị H trình bày tổ chức đám cưới vào ngày 27/12/1987, có đăng ký kết hôn tại UBND xã G. Tuy nhiên, anh chị không đưa ra được GCNKH với lý do đã làm mất. Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh Q và chị H có đăng ký kết hôn căn cứ vào lời xác nhận của ông T - Phó Ban Công an phụ trách hộ tịch hộ khẩu xã G năm 1987 (người trước đây đã thực hiện đăng ký kết hôn cho anh Q, chị H). Do đó, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm đã công nhận sự thỏa thuận thuận tình ly hôn giữa anh Q và chị H. Sau đó, Bản án sơ thẩm đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị với lý do Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của đương sự và giấy xác nhận của ông T để giải quyết công nhận thuận tình ly hôn là chưa đủ căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm đã về địa phương để xem xét lại tính xác thực của chứng cứ về việc đăng ký kết hôn của đương sự. UBND xã G đã cung cấp như sau: Anh Q và chị H có đăng ký kết hôn. Bởi vì sổ sách để theo dõi việc đăng ký kết hôn từ năm 1987 đến năm 1990 bị thất lạc, không còn lưu tại UBND nữa, cho nên UBND đã căn cứ vào lời trình bày của ông T để xác nhận việc anh Q và chị H có đăng ký kết hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy đã đủ căn cứ xác định anh Q, chị H có đăng ký kết hôn, giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm về quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Q, chị H[2].

Trong các trường hợp trên, để được xem là vợ chồng thì đương sự phải chứng minh được quan hệ hôn nhân của mình là hợp pháp. Về nghĩa vụ chứng minh, pháp luật quy định đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp[3]. Nếu đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc. Như vậy, để được giải quyết cho ly hôn, các bên phải chứng minh mối quan hệ vợ chồng giữa họ bằng việc cung cấp GCNKH. Nhưng trong các trường hợp này, do các bên đã làm mất GCNKH nên cần căn cứ vào sổ hộ tịch được lưu trữ tại UBND.

Theo quy định của pháp luật về hộ tịch, đối với trường hợp sổ hộ tịch bị mất và người dân cũng bị mất GCNKH bản chính, thì cần phải có GCNKH bản sao hoặc giấy tờ cá nhân có chứa các thông tin liên quan đến nội dung đăng ký kết hôn. Điều này đồng nghĩa với việc pháp luật cho phép người dân dùng các giấy tờ có liên quan đến việc đã từng đăng ký kết hôn để chứng minh quan hệ hôn nhân của mình là hợp pháp khi họ thực hiện việc đăng ký lại kết hôn[4]. Như vậy, tại sao không cho phép các bên yêu cầu giải quyết ly hôn trong trường hợp này có thể chứng minh quan hệ hôn nhân của họ bằng nhiều cách thức?

Tác giả đồng ý với cách giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh trong trường hợp thứ hai nêu trên. Bởi lẽ, so với trường hợp thứ nhất, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã xét xử một cách linh hoạt hơn.

Ngoài ra, đối với trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn trước ngày 03/01/1987 mà làm mất GCNKH và có yêu cầu ly hôn thì cách giải quyết sẽ khác các trường hợp trên, bởi vì đây là giai đoạn Nhà nước công nhận hôn nhân thực tế[5]. Do đó, nếu họ có đăng ký kết hôn nhưng đã làm mất GCNKH mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án vẫn giải quyết cho họ ly hôn.

2. Một số kiến nghị

Trong trường hợp không công nhận quan hệ vợ chồng nêu trên, cách giải quyết sẽ khác nếu như các cặp đôi được UBND cấp xã cấp trích lục kết hôn căn cứ vào thông tin lưu trong sổ hộ tịch. Trong trường hợp này, việc không chứng minh được quan hệ vợ chồng giữa các bên lỗi không hoàn toàn ở các bên đương sự. Hai bên đương sự có lỗi vì đã làm thất lạc GCNKH, phần lỗi còn lại thuộc về UBND khi không còn giữ sổ hộ tịch dẫn đến việc không thể cấp trích lục kết hôn cho hai bên. Từ thực tiễn xét xử cho thấy hiện nay tình trạng này đang diễn ra khá nhiều nhưng pháp luật nước ta vẫn chưa điều chỉnh dẫn đến việc có thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Cụ thể là, trong quá trình giải quyết ly hôn, Tòa án sẽ tiến hành hòa giải về quan hệ hôn nhân giữa họ. Tài sản chung của vợ chồng được xem là tài sản chung hợp nhất, nếu vợ chồng ly hôn thì việc chia tài sản sẽ tiến hành theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Ngược lại, nếu giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng thì sẽ không có thủ tục hòa giải hôn nhân và tài sản của họ sẽ giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự[6].

Tham khảo quy định của Bộ luật Dân sự Pháp, việc kết hôn được thể hiện qua chứng thư hộ tịch, chứng thư hộ tịch được mỗi địa phương ghi vào một hoặc nhiều sổ đăng ký (Điều 34, 40[7]). Nếu không có sổ đăng ký hộ tịch hoặc sổ đăng ký hộ tịch bị thất lạc thì có thể chứng minh bằng chứng thư hoặc thông qua người làm chứng; trong các trường hợp trên, việc kết hôn có thể được chứng minh bằng sổ sách hoặc giấy tờ bắt nguồn từ người cha và người mẹ đã chết hoặc thông qua người làm chứng[8]. Có thể thấy, quy định của Bộ luật Dân sự Pháp là hợp lý và thuyết phục trong việc cho phép chứng minh việc đăng ký kết hôn bằng nhiều cách thức.

Tác giả kiến nghị, nên cho phép hai bên đương sự chứng minh quan hệ hôn nhân của mình là hợp pháp bằng nhiều cách thức thay vì chỉ chấp nhận GCNKH hoặc dựa vào sổ hộ tịch. Trong trường hợp sổ hộ tịch không còn, có thể áp dụng linh hoạt như cách giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh ở ví dụ thứ hai, căn cứ vào lời xác nhận của người có liên quan đến việc đăng ký kết hôn cho hai bên đương sự hoặc có thể cho phép đương sự nộp các giấy tờ cá nhân có thể hiện các thông tin liên quan đến nội dung đăng ký kết hôn như: Giấy khai sinh của con chung; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; sổ hộ khẩu…

ThS. Nguyễn Ngọc Hoa Đăng

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

[1]. Bản án số 36/2019/HN&GĐ-ST ngày 08/8/2019 “V/v Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp về nuôi con” của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình, https://congbobanan.toaan.gov.vn/ 2ta340268t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 21/3/2023.

[2]. Lê Vĩnh Châu - Lê Thị Mận (2011), Tuyển tập các Bản án, Quyết định của Tòa án Việt Nam về hôn nhân và gia đình, Nxb. Lao động, tr. 500 - 503.

[3]. Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[4]. Xem Điều 27 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.

[5]. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

[6]. Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[7]. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam (2018), Bản dịch Bộ luật Dân sự Pháp, Nxb. Tư pháp, tr. 29 - 30.

[8]. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam (2018), (tlđd), tr. 30.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 382), tháng 6/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm