
Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả phân tích căn cứ ly hôn, không công nhận quan hệ vợ chồng, vấn đề giải quyết yêu cầu ly hôn khi mất giấy chứng nhận kết hôn qua ví dụ thực tiễn và đưa ra một số kiến nghị.
Abstract: In this article, the author analyzes the grounds for porce, non-recognition of the husband-and-wife relationship, the issue of resolving the porce request when the marriage certificate is lost through practical examples and makes some recommendations.
1. Thực tiễn giải quyết của Tòa án trong trường hợp các bên yêu cầu ly hôn nhưng không còn giấy tờ xác nhận sự tồn tại của quan hệ hôn nhân
Trong thực tiễn xét xử, có những trường hợp các đương sự khi nộp đơn yêu cầu ly hôn trình bày là có đăng ký kết hôn nhưng họ đã làm mất giấy chứng nhận kết hôn (GCNKH). Họ đã đến Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi đăng ký kết hôn để yêu cầu cấp trích lục kết hôn nhưng UBND cấp xã trả lời rằng do sổ hộ tịch của xã đã bị mất hoặc không còn lưu hồ sơ nên không thể xác nhận việc đăng ký kết hôn của họ. Trong những trường hợp này, các Tòa án đã có hướng giải quyết khác nhau. Tác giả đưa ra hai vụ án điển hình về vấn đề này.
Trường hợp thứ nhất: Anh A và chị B tổ chức đám cưới vào năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện N, tỉnh N nhưng GCNKH đã mất. Nay anh chị có yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tại biên bản xác minh ngày 26/6/2019, UBND xã S xác nhận anh A và chị B chung sống với nhau từ năm 1994 và hiện nay UBND không còn sổ lưu về việc đăng ký kết hôn này. Tòa án đã tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh A và chị B[1].
Trường hợp thứ hai: Trong đơn ly hôn, anh Q và chị H trình bày tổ chức đám cưới vào ngày 27/12/1987, có đăng ký kết hôn tại UBND xã G. Tuy nhiên, anh chị không đưa ra được GCNKH với lý do đã làm mất. Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh Q và chị H có đăng ký kết hôn căn cứ vào lời xác nhận của ông T - Phó Ban Công an phụ trách hộ tịch hộ khẩu xã G năm 1987 (người trước đây đã thực hiện đăng ký kết hôn cho anh Q, chị H). Do đó, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm đã công nhận sự thỏa thuận thuận tình ly hôn giữa anh Q và chị H. Sau đó, Bản án sơ thẩm đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị với lý do Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của đương sự và giấy xác nhận của ông T để giải quyết công nhận thuận tình ly hôn là chưa đủ căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm đã về địa phương để xem xét lại tính xác thực của chứng cứ về việc đăng ký kết hôn của đương sự. UBND xã G đã cung cấp như sau: Anh Q và chị H có đăng ký kết hôn. Bởi vì sổ sách để theo dõi việc đăng ký kết hôn từ năm 1987 đến năm 1990 bị thất lạc, không còn lưu tại UBND nữa, cho nên UBND đã căn cứ vào lời trình bày của ông T để xác nhận việc anh Q và chị H có đăng ký kết hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy đã đủ căn cứ xác định anh Q, chị H có đăng ký kết hôn, giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm về quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Q, chị H[2].
Trong các trường hợp trên, để được xem là vợ chồng thì đương sự phải chứng minh được quan hệ hôn nhân của mình là hợp pháp. Về nghĩa vụ chứng minh, pháp luật quy định đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp[3]. Nếu đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc. Như vậy, để được giải quyết cho ly hôn, các bên phải chứng minh mối quan hệ vợ chồng giữa họ bằng việc cung cấp GCNKH. Nhưng trong các trường hợp này, do các bên đã làm mất GCNKH nên cần căn cứ vào sổ hộ tịch được lưu trữ tại UBND.
Theo quy định của pháp luật về hộ tịch, đối với trường hợp sổ hộ tịch bị mất và người dân cũng bị mất GCNKH bản chính, thì cần phải có GCNKH bản sao hoặc giấy tờ cá nhân có chứa các thông tin liên quan đến nội dung đăng ký kết hôn. Điều này đồng nghĩa với việc pháp luật cho phép người dân dùng các giấy tờ có liên quan đến việc đã từng đăng ký kết hôn để chứng minh quan hệ hôn nhân của mình là hợp pháp khi họ thực hiện việc đăng ký lại kết hôn[4]. Như vậy, tại sao không cho phép các bên yêu cầu giải quyết ly hôn trong trường hợp này có thể chứng minh quan hệ hôn nhân của họ bằng nhiều cách thức?
Tác giả đồng ý với cách giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh trong trường hợp thứ hai nêu trên. Bởi lẽ, so với trường hợp thứ nhất, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã xét xử một cách linh hoạt hơn.
Ngoài ra, đối với trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn trước ngày 03/01/1987 mà làm mất GCNKH và có yêu cầu ly hôn thì cách giải quyết sẽ khác các trường hợp trên, bởi vì đây là giai đoạn Nhà nước công nhận hôn nhân thực tế[5]. Do đó, nếu họ có đăng ký kết hôn nhưng đã làm mất GCNKH mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án vẫn giải quyết cho họ ly hôn.
2. Một số kiến nghị
Trong trường hợp không công nhận quan hệ vợ chồng nêu trên, cách giải quyết sẽ khác nếu như các cặp đôi được UBND cấp xã cấp trích lục kết hôn căn cứ vào thông tin lưu trong sổ hộ tịch. Trong trường hợp này, việc không chứng minh được quan hệ vợ chồng giữa các bên lỗi không hoàn toàn ở các bên đương sự. Hai bên đương sự có lỗi vì đã làm thất lạc GCNKH, phần lỗi còn lại thuộc về UBND khi không còn giữ sổ hộ tịch dẫn đến việc không thể cấp trích lục kết hôn cho hai bên. Từ thực tiễn xét xử cho thấy hiện nay tình trạng này đang diễn ra khá nhiều nhưng pháp luật nước ta vẫn chưa điều chỉnh dẫn đến việc có thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Cụ thể là, trong quá trình giải quyết ly hôn, Tòa án sẽ tiến hành hòa giải về quan hệ hôn nhân giữa họ. Tài sản chung của vợ chồng được xem là tài sản chung hợp nhất, nếu vợ chồng ly hôn thì việc chia tài sản sẽ tiến hành theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Ngược lại, nếu giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng thì sẽ không có thủ tục hòa giải hôn nhân và tài sản của họ sẽ giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự[6].
Tham khảo quy định của Bộ luật Dân sự Pháp, việc kết hôn được thể hiện qua chứng thư hộ tịch, chứng thư hộ tịch được mỗi địa phương ghi vào một hoặc nhiều sổ đăng ký (Điều 34, 40[7]). Nếu không có sổ đăng ký hộ tịch hoặc sổ đăng ký hộ tịch bị thất lạc thì có thể chứng minh bằng chứng thư hoặc thông qua người làm chứng; trong các trường hợp trên, việc kết hôn có thể được chứng minh bằng sổ sách hoặc giấy tờ bắt nguồn từ người cha và người mẹ đã chết hoặc thông qua người làm chứng[8]. Có thể thấy, quy định của Bộ luật Dân sự Pháp là hợp lý và thuyết phục trong việc cho phép chứng minh việc đăng ký kết hôn bằng nhiều cách thức.
Tác giả kiến nghị, nên cho phép hai bên đương sự chứng minh quan hệ hôn nhân của mình là hợp pháp bằng nhiều cách thức thay vì chỉ chấp nhận GCNKH hoặc dựa vào sổ hộ tịch. Trong trường hợp sổ hộ tịch không còn, có thể áp dụng linh hoạt như cách giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh ở ví dụ thứ hai, căn cứ vào lời xác nhận của người có liên quan đến việc đăng ký kết hôn cho hai bên đương sự hoặc có thể cho phép đương sự nộp các giấy tờ cá nhân có thể hiện các thông tin liên quan đến nội dung đăng ký kết hôn như: Giấy khai sinh của con chung; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; sổ hộ khẩu…
ThS. Nguyễn Ngọc Hoa Đăng
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
[1]. Bản án số 36/2019/HN&GĐ-ST ngày 08/8/2019 “V/v Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp về nuôi con” của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình, https://congbobanan.toaan.gov.vn/ 2ta340268t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 21/3/2023.
[2]. Lê Vĩnh Châu - Lê Thị Mận (2011), Tuyển tập các Bản án, Quyết định của Tòa án Việt Nam về hôn nhân và gia đình, Nxb. Lao động, tr. 500 - 503.
[3]. Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[4]. Xem Điều 27 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.
[5]. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
[6]. Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[7]. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam (2018), Bản dịch Bộ luật Dân sự Pháp, Nxb. Tư pháp, tr. 29 - 30.
[8]. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam (2018), (tlđd), tr. 30.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 382), tháng 6/2023)