Thứ bảy 01/11/2025 09:04
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hòa giải tranh chấp lao động theo Bộ luật Lao động năm 2019

Hòa giải tranh chấp lao động theo Bộ luật Lao động năm 2019

Bài viết trình bày, phân tích, bình luận những quy định mới trong Bộ luật Lao động năm 2019, nhận thức và việc thực thi đối với phương thức hòa giải trong giải quyết tranh chấp lao động.

1. Hòa giải viên lao động

Hòa giải viên lao động là chủ thể có thẩm quyền tiến hành hòa giải do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm để hòa giải tranh chấp lao động, tranh chấp về hợp đồng đào tạo nghề; hỗ trợ phát triển quan hệ lao động[1]. Trên thế giới có nhiều quốc gia quy định thẩm quyền bổ nhiệm hòa giải viên lao động thuộc về những người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Ví dụ: Ở Đan Mạch, hòa giải viên được bổ nhiệm bởi Bộ trưởng Bộ Lao động thông qua sự giới thiệu của Tòa án lao động; ở Indonesia, hòa giải viên ghi danh tại cơ quan quản lý nhà nước về lao động được Bộ trưởng Bộ lao động trao bằng chứng nhận hợp pháp[2].

Hòa giải viên lao động là chủ thể đầu tiên được pháp luật ghi nhận có thẩm quyền tiến hành hòa giải tất cả các tranh chấp lao động, bao gồm cả tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể. So với Bộ luật Lao động năm 2012, Bộ luật Lao động năm 2019 đã bổ sung thêm nhiệm vụ hỗ trợ phát triển quan hệ lao động cho hòa giải viên lao động.

Trong quá trình hòa giải tranh chấp lao động, hòa giải viên lao động sẽ tiến hành các thủ tục như một bên thứ ba để hỗ trợ các bên trong quá trình đàm phán nhằm hướng tới mục đích cuối cùng để giúp giải quyết mâu thuẫn của hai bên chủ thể. Tại nhiều nước, cụm từ hòa giải hoặc trung gian được sử dụng theo mức độ chủ động của chủ thể này. Vì thế, một vài hệ thống giải quyết đã phân biệt hòa giải là một thủ tục, qua đó, bên thứ ba sẽ đưa các bên lại với nhau, khuyến khích họ thảo luận những điểm khác biệt và giúp họ đưa ra phương án giải quyết của riêng mình; còn trung gian là một thủ tục mà bên thứ ba nắm vai trò chủ động hơn trong việc giúp đỡ các bên tham gia tìm ra một giải pháp chấp nhận được, thậm chí có thể đưa ra giải pháp của mình tới các bên. Tại Việt Nam, việc phân định giữa trung gian và hòa giải không được thể hiện rõ ràng, mà được hiểu là với cả hai chức năng trên cùng một chủ thể tiến hành hòa giải. Vì suy cho cùng, việc giải quyết thành công phụ thuộc vào sự ưng thuận của các bên[3]. Pháp luật lao động Việt Nam quy định các điều kiện để một người được công nhận là hòa giải viên lao động tại Điều 92 Nghị định 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.

2. Thẩm quyền hòa giải tranh chấp lao động của hòa giải viên lao động

2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Theo Điều 187 Bộ luật Lao động năm 2019, hòa giải viên lao động có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp lao động cá nhân trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài hay Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, có một số tranh chấp không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động (được quy định tại khoản 1 Điều 188 Bộ luật Lao động năm 2019). Theo đó, có sáu trường hợp tranh chấp lao động pháp luật Việt Nam ghi nhận không cần bắt buộc thông qua thủ tục hòa giải mà có thể gửi thẳng yêu cầu tới Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án nhân dân giải quyết. Đặc điểm chung dễ nhận thấy đây đều là những tranh chấp có liên quan trực tiếp đến các vấn đề quan trọng và thiết yếu của người lao động như các khoản thu nhập, công việc, bồi thường thiệt hại… nên cần phải giải quyết nhằm đáp ứng nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời[4] và đưa ra kết quả hợp lý. Còn các tranh chấp cá nhân không thuộc sáu trường hợp trên vẫn bắt buộc phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động rồi mới đến Hội đồng trọng tài lao động và Tòa án nhân dân.

2.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Theo Điều 191, Điều 195 Bộ luật Lao động năm 2019, hòa giải viên lao động có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền và lợi ích.

Khoản 2 Điều 191 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định tranh chấp lao động tập thể về quyền bắt buộc phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết.

Khoản 2 Điều 195 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định tranh chấp lao động tập thể về lợi ích bắt buộc phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết hoặc tiến hành thủ tục đình công là điểm mới so với Bộ luật Lao động năm 2012.

Các quy định nói trên khẳng định vai trò ngày càng quan trọng và cần thiết của hòa giải viên lao động đối với quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Bởi một tranh chấp sẽ phát sinh khi các bên không thể tự mình thỏa thuận và giải quyết. Khi đó cần có sự tham gia và giúp đỡ của một bên thứ ba, nhưng cũng sẽ không có tranh chấp nếu các bên lựa chọn tiếp tục thỏa thuận và có ý muốn thỏa thuận thành công. Vì vậy, nếu coi thương lượng tập thể chỉ được xem như một phương pháp giải quyết tranh chấp thì nó sẽ được đề cập như một thủ tục ngang hàng hòa giải và trọng tài[5].

Như vậy, có thể thấy đối với hoạt động hòa giải tranh chấp lao động thì hòa giải viên lao động là chủ thể có thẩm quyền giải quyết tất cả các loại tranh chấp lao động cả cá nhân và tập thể.

Nhìn chung, trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp lao động do hòa giải viên lao động tiến hành đối với các tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể là tương tự nhau. Trình tự, thủ tục này được quy định tại Điều 188 Bộ luật Lao động năm 2019, gồm các bước sau: (i) Tiếp nhận đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp lao động; (ii) Tổ chức phiên họp hòa giải; (iii) Kết thúc quá trình hòa giải.

3. Tồn tại và kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật hòa giải tranh chấp lao động

3.1. Tồn tại trong thực thi pháp luật hòa giải tranh chấp lao động của hòa giải viên lao động

Hòa giải tranh chấp lao động không phải là vấn đề mới của Bộ luật Lao động năm 2019. Tuy nhiên, sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung vẫn còn tồn tại một số vấn đề ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải. Cụ thể:

Một là, cơ chế hoạt động của hòa giải viên lao động chưa thực sự được chú trọng và chưa có một cơ chế chung cho hoạt động của hòa giải viên lao động. Hiện nay, chưa có một cơ quan thống nhất trên toàn quốc về quản lý hòa giải viên mà chủ yếu phụ thuộc nhiều vào cơ chế phân cấp của từng địa phương. Trong khi đó, số lượng các địa phương ban hành quy chế hòa giải viên lao động động rất ít. Theo quy định pháp luật hiện hành, hòa giải viên được thành lập ở đơn vị cấp huyện, trong khi đó việc quản lý doanh nghiệp lại không phải chỉ dành riêng cho đơn vị hành chính cấp huyện. Chỉ những doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo phân cấp quản lý cho đơn vị cấp huyện thì hòa giải viên lao động mới có thể dễ dàng tiếp cận. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi vai trò của hòa giải viên chưa được khẳng định trong thực tế, thiếu cơ chế thành lập cơ quan hòa giải cấp tỉnh để nâng cao khả năng tiếp cận của hòa giải viên đến những vụ việc tranh chấp, thiếu những quy định nhằm tránh việc hành chính hóa, biến cơ quan hòa giải thành một cơ quan có chức năng hành chính làm giảm đi hiệu quả của việc hòa giải.

Hai là, về số lượng và chất lượng hòa giải viên lao động, theo báo cáo quan hệ lao động năm 2017 của Ủy ban Quan hệ lao động thì đến năm 2017, các địa phương đã bổ nhiệm 1.420 hòa giải viên lao động, trong đó, hòa giải viên nữ chiếm 30%. Phần lớn hòa giải viên đều có trình độ đại học trở lên (87%), đang làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước (67%). Xét về chuyên môn hòa giải viên lao động, có 28% chuyên ngành luật, 25% chuyên ngành kinh tế (ngoài kinh tế lao động), 3% chuyên ngành kinh tế lao động, 9% chuyên ngành hành chính nhà nước, 35% chuyên môn khác[6]. Do đó, chất lượng, trình độ của đội ngũ hòa giải viên cần được chú trọng nâng cao hơn.

Ba là, về hoạt động hòa giải của hòa giải viên lao động, Báo cáo số 44/BC-TANDTC ngày 28/9/2018 của Tòa án nhân dân tối cao về “Đánh giá thực trạng quan hệ xã hội có liên quan đến các chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án” có đề cập đến hòa giải viên lao động và cho rằng hoạt động hòa giải để giải quyết tranh chấp lao động của hòa giải viên lao động chưa đem lại hiệu quả cao, còn tồn tại nhiều bất cập, khó khăn, cụ thể:

- Số vụ tranh chấp lao động được hòa giải còn ít, nhiều tỉnh, thành phố có bình quân hàng năm dưới 10 vụ; thậm chí một số tỉnh, thành phố báo cáo không có vụ việc tranh chấp nào được hòa giải viên lao động giải quyết.

- Công tác đào tạo bồi dưỡng hòa giải viên mới chỉ đáp ứng được yêu cầu một phần yêu cầu đề ra do nguồn kinh phí hạn hẹp, nhiều địa phương chưa bố trí được kinh phí. Chế độ chính sách còn thấp, các hỗ trợ về địa điểm, phương tiện, kinh phí làm việc của địa phương rất hạn chế, không thu hút được nguồn nhân lực tham gia.

- Tính chuyên nghiệp của hòa giải viên lao động chưa đạt như mong muốn. Vai trò của hòa giải mới chỉ giới hạn trong giải quyết tranh chấp một cách bị động khi được yêu cầu; chưa có nhiệm vụ hỗ trợ hai bên trong doanh nghiệp phát triển quan hệ lao động một cách tích cực, chủ động để phòng ngừa tranh chấp xảy ra.

3.2. Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật hòa giải tranh chấp lao động của hòa giải viên lao động

Thứ nhất, thành lập một cơ quan chuyên môn về quản lý hòa giải viên.

Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa quy định một tổ chức cụ thể chịu trách nhiệm quản lý một cách độc lập, chuyên nghiệp và thống nhất cả nước về cơ cấu, hoạt động của hòa giải viên. Đối lập với điều này ở Việt Nam, các nước trên thế giới rất đề cao hòa giải viên và có những quy định cụ thể về hoạt động của chủ thể này. Tiêu biểu là Hoa Kỳ đối với hòa giải ngoài tố tụng, hòa giải được tiến hành bởi các hòa giải viên chuyên nghiệp, làm việc toàn thời gian cho Cơ quan trung gian và hòa giải Liên bang (FMCS) hoặc các cơ quan lao động tiểu bang[7].

Vì vậy, Nhà nước cần thành lập một cơ quan chuyên môn về quản lý hòa giải viên lao động. Mô hình đó có thể tồn tại theo các cấp hành chính để dễ dàng theo dõi như cơ quan quản lý cấp quốc gia và các cơ quan độc lập cấp huyện hoặc cấp tỉnh.

Thứ hai, quy định chặt chẽ hơn các tiêu chuẩn trở thành hòa giải viên lao động.

Điều 92 Nghị định 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động quy định các tiêu chuẩn trở thành hòa giải viên lao động nhưng so sánh với pháp luật một số nước thì còn khá sơ sài và đơn giản. Cũng giống như việc có cơ quan chuyên về hòa giải, hòa giải viên lao động của các quốc gia trên thế giới thường được lựa chọn theo những tiêu chuẩn rất khắt khe. Ví dụ như ở Pháp, một luật gia cần được đào tạo 200 giờ để có thể trở thành hòa giải viên. Ở một số quốc gia như Australia và Thái Lan, các hòa giải viên lao động có thể là chuyên gia từ nhiều lĩnh vực tài chính, thương mại[8]… Vì hoạt động hòa giải thường liên quan đến các quy tắc, quy định pháp luật, hòa giải viên lao động cần am hiểu về luật pháp, nghiên cứu và nắm được các luật, thông tư, nghị định liên quan đến hòa giải. Ngoài ra, họ còn cần có các kỹ năng hòa giải nên có thể bổ sung việc các hòa giải viên lao động ngoài có bằng đại học trở lên trong lĩnh vực luật pháp cần có chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng hòa giải.

Các tiêu chuẩn về hòa giải viên cũng cần phải tiếp cận dần với tiêu chuẩn theo quan điểm của các chuyên gia thuộc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Tiêu chí chung của hòa giải viên phải là: Trung lập, độc lập, không thiên vị; không xung đột về lợi ích với các bên; có chuyên môn nghiệp vụ cao về lao động và hiểu biết sâu sắc các tranh chấp cá nhân, tập thể, tranh chấp về quyền hoặc lợi ích; nắm chắc quy trình, kỹ thuật hòa giải.

Thứ ba, thay đổi thời hạn giải quyết tranh chấp lao động của hòa giải viên lao động.

Thời hạn giải quyết tranh chấp lao động được quy định theo pháp luật lao động là 05 ngày. Thời hạn như vậy là ngắn và không hợp lý, vì để giải quyết một tranh chấp, hòa giải viên lao động phải thực hiện nhiều thao tác từ nghiên cứu vụ án, tìm kiếm thông tin, nắm bắt được ý chí và nguyện vọng của các bên cũng như tìm ra phương hướng giải quyết phù hợp. Chưa kể đến mỗi tranh chấp lại có tính chất, đặc điểm riêng biệt, nhiều vụ việc rất phức tạp và liên quan đến nhiều cá nhân. Để giải quyết có hiệu quả chỉ trong một thời gian ngắn là điều khá khó khăn và không hợp lí cho hòa giải viên lao động. Điều này dẫn tới thực trạng chất lượng hòa giải các vụ việc của hòa giải viên lao động chưa đem lại kết quả cao, việc sử dụng phương pháp này cũng chưa được nhiều người tin dùng. Do đó, cần sửa đổi quy định để tăng thêm thời hạn giải quyết tranh chấp lao động cho hòa giải viên lao động. Tác giả kiến nghị tăng mức thời gian chung lên thành 10 ngày hoặc tùy vào tính chất vụ việc mà có thời hạn khác nhau để giải quyết tranh chấp lao động. Đây là mốc thời gian không quá dài cũng không quá ngắn, phù hợp cho hòa giải viên lao động có đủ thời gian nghiên cứu và đưa ra kết luận chính xác cho tranh chấp cần giải quyết. Nhưng dù tăng mức thời hạn giải quyết tranh chấp lao động, hòa giải viên lao động tuyệt đối không được kéo dài hoặc trì hoãn quá trình giải quyết tranh chấp lao động bằng biện pháp hòa giải mà phải thực hiện và kết thúc quá trình hòa giải một cách nhanh chóng, hợp lý trong khả năng của mình.

Thứ tư, quy định biện pháp bảo đảm thực thi kết quả hòa giải thành.

Kết quả hòa giải thành công của các bên tranh chấp được ghi nhận thông qua văn bản hòa giải thành do hòa giải viên lao động lập. Nhưng chưa có quy định hiện hành nào bắt buộc các bên phải thực hiện mà chỉ dựa trên thái độ tự giác của mỗi người. Vì vậy, cần đề cao giá trị pháp lý và có quy định mới mang tính chất bắt buộc thi hành đối với các biên bản hòa giải tranh chấp lao động, nghĩa là các bên trong quan hệ tranh chấp lao động có nghĩa vụ phải thực hiện những điều đã được công nhận trong văn bản này. Nếu có hành vi vi phạm hoặc cố tình thực hiện không đúng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành. Cần quy định trình tự, thủ tục để bên bị vi phạm có thể khởi kiện, khiếu nại hoặc bằng một phương thức nào đó tiếp tục đấu tranh cho việc thực hiện các thỏa thuận.

ThS. Nguyễn Năng Quang

Trường Đại học Công nghệ Miền Đông

[1]. Khoản 1 Điều 184 Bộ luật Lao động năm 2019.

[2]. Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể - Kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.62.

[3]. Nguyễn Hữu Chí và Nguyễn Văn Bình (Đồng Chủ biên, 2021), Bình luận khoa học Bộ luật Lao động năm 2019, Nxb. Tư pháp, tr.492.

[4]. Xem Điều 180 Bộ luật Lao động năm 2019.

[5]. Nguyễn Hữu Chí và Nguyễn Văn Bình (Đồng Chủ biên, 2021), Bình luận khoa học Bộ luật Lao động năm 2019, Nxb. Tư pháp, tr.523-524.

[6]. Ủy ban Quan hệ lao động, Báo cáo quan hệ lao động năm 2017, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 2018, tr26-27.

[7]. T. Hanami & R. Blanpain (1989), Industrial Conflict Resolution in Market Economies: A Study of Australia, the Federal Republic of Germany, Italy, Japan and the USA, Kluwer Law and Taxation Publishers.

[8]. T. Hanami & R. Blanpain (1989), Industrial Conflict Resolution in Market Economies: A Study of Australia, the Federal Republic of Germany, Italy, Japan and the USA, Kluwer Law and Taxation Publishers.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 384), tháng 7/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.
Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, việc xác định đối tượng trợ giúp pháp lý người dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn phát sinh một số bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
delta-group
nha-hang-thai-village
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi