1. Thể chế chính trị về kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thi hành án dân sự ngày càng được quan tâm, tăng cường
Kiểm soát quyền lực, đặc biệt là kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm và xác định là một trong những việc hệ trọng của đất nước. Có thể nhận thấy, từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, tư duy, nhận thức và quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói chung và trong hoạt động THADS nói riêng ngày càng rõ ràng, thống nhất và xuyên suốt, được hoàn thiện qua từng thời kỳ.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định quan điểm, các cơ quan tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử, nhân dân và nhiệm vụ “phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp”.
Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), cùng với việc bổ sung, phát triển “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, có bổ sung quan trọng: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã đặt ra nguyên tắc hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị trong đó có các cơ quan tư pháp, cơ quan THADS: “Thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính”.
Thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, ngày 28/11/2013, kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII đã thông qua bản Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 2013, trong đó quy định rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Quy định này là một bước phát triển mới trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Căn cứ quy định của Hiến pháp năm 2013, các văn bản quy phạm pháp luật đã quy định cụ thể cơ chế kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giữa các cơ quan tư pháp, tổ chức trong hoạt động THADS.
Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục có những bổ sung quan trọng về nội dung của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta trong tình hình mới (tầm nhìn đến 2045), đó là: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” và “bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”.
Để nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, tích cực góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Một trong những giải pháp đặt ra là định hướng phân công, phối hợp, kiểm soát của các cấp, các ngành, bao gồm trách nhiệm giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và trách nhiệm thực thi của các cơ quan tư pháp, tổ chức có liên quan trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm sát công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; kịp thời phát hiện, khắc phục những tồn tại, hạn chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý nghiêm những sai phạm, tiêu cực trong công tác thu hồi tài sản.
2. Kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thi hành án dân sự được thực hiện đồng bộ bởi nhiều chủ thể
Sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải cách pháp luật; tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0... với nhiều vấn đề cấp bách, quan trọng cần tiếp tục được nghiên cứu, đổi mới, hoàn thiện về tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và hệ thống cơ quan THADS nói riêng, trong đó có yêu cầu về bảo đảm sự công bằng, nghiêm minh trong thực thi pháp luật, thi hành bản án, quyết định của Tòa án; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước; phòng, chống tham nhũng; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; tinh giản, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động bộ máy cơ quan nhà nước; nâng cao chất lượng dịch vụ công, tiết kiệm thời gian, chi phí tuân thủ pháp luật, xây dựng Chính phủ số, Chính phủ điện tử… hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đặt ra đối với công tác THADS, để bảo đảm kiểm soát quyền lực hiệu quả, nhiều cơ chế đã được đồng thời thực hiện bởi các cơ quan khác nhau đối với công tác THADS, cụ thể như:
Thứ nhất, kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động của tổ chức Đảng.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng lãnh đạo Nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện[1]. Theo đó, đối với hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động THADS nói riêng, Đảng không chỉ có vai trò lãnh đạo mà các cấp ủy Đảng còn thực hiện kiểm soát đối với hoạt động này thông qua nhiều phương thức như yêu cầu các cơ quan THADS, cơ quan quản lý nhà nước về THADS báo cáo; thực hiện hoạt động kiểm tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của lãnh đạo cơ quan THADS; kiểm tra hoạt động của đảng viên, cấp ủy và cơ quan THADS… Đồng thời, với các nhiệm vụ về kiểm tra của Ủy ban kiểm tra các cấp theo quy định tại Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam[2], Ủy ban kiểm tra các cấp là cơ quan chuyên trách của Đảng thực hiện các hoạt động kiểm tra, giám sát với các tổ chức Đảng, đảng viên.
Thứ hai, kiểm soát quyền lực thông qua giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của các Ủy ban của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân... giám sát hoạt động của cơ quan THADS và các cơ quan nhà nước khác trong THADS theo quy định của pháp luật[3]. Một trong những chức năng của Quốc hội là thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước[4]. Quy định trên đã được Luật Tổ chức Quốc hội cụ thể hóa, theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập[5]. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội thực hiện quyền giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp...; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp; giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng[6]. Hội đồng nhân dân thực hiện giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, trong đó có nội dung giám sát hoạt động THADS[7]. Các quy định trên đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để Quốc hội, Hội đồng nhân dân thực hiện quyền kiểm soát đối với hoạt động THADS; đồng thời là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền quy định cụ thể các nội dung về kiểm soát hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động THADS nói riêng.
Thứ ba, kiểm soát quyền lực thông qua giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, người dân, doanh nghiệp, các hiệp hội quần chúng, hội nghề nghiệp, các cơ quan báo chí.
Kiểm soát, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, người dân, doanh nghiệp, các hội quần chúng, hội nghề nghiệp đối với tổ chức, hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung, hoạt động THADS nói riêng đã được quy định trong hệ thống các văn bản pháp luật[8]. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân có chức năng và nhiệm vụ quản trị toàn diện đất nước. Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam[9]. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được quy định tại Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, theo đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên thực hiện giám sát đối với hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động của cơ quan THADS nói riêng. Điều 12 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, năm 2020) quy định “... Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan nhà nước khác trong thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật”. Việc giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động của cơ quan THADS là một phương thức để nhân dân thực hiện quyền giám sát của đối với hoạt động này.
Không chỉ vậy, công tác THADS không nằm ngoài phạm vi giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội, trước hết là các tổ chức chính trị - xã hội của các cơ quan THADS. Trong công tác Đảng và công tác tổ chức cán bộ, các bước, các quy trình đều bao hàm việc lấy ý kiến của đại diện các tổ chức chính trị - xã hội làm cơ sở để thực hiện công tác cán bộ.
Ngoài ra, nhân dân còn trực tiếp thực hiện kiểm soát thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đối với các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong THADS. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân[10]. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, năm 2020) đã dành 02 mục (gồm 19 điều) quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS, trong đó quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thông qua các quy định trên, nhân dân đã thực hiện việc kiểm soát đối với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của công chức, cơ quan THADS.
Khi thực hiện các chức năng xã hội của mình, báo chí có trách nhiệm tham gia thực hiện việc quản lý, giám sát xã hội và kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Đặc biệt, giám sát và phản biện xã hội được coi là một chức năng xã hội quan trọng của báo chí, là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội[11] để theo dõi, đánh giá việc thực thi các chủ trương, chính sách, kịp thời phát hiện những việc làm sai trái, tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng hoặc buông lỏng quyền lực, qua đó góp phần kiểm soát quyền lực.
Thứ tư, kiểm soát quyền lực thông qua quản lý của Bộ Tư pháp và Tổng cục Thi hành án dân sự.
Thực hiện chức năng của Bộ Tư pháp về quản lý THADS, Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã nghiêm túc quán triệt, cụ thể hóa, thể chế hóa, giáo dục chính trị tư tưởng trong toàn hệ thống THADS về chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động THADS và thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm kiểm soát quyền lực có hiệu quả đối với công tác THADS, cụ thể là:
- Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã ban hành nhiều văn bản quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và lãnh đạo, chỉ đạo sát sao trong toàn hệ thống THADS[12] để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Hàng năm, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo sát sao việc ban hành kế hoạch phòng, chống tham nhũng năm của toàn hệ thống THADS. Trong giai đoạn 2021 - 2025, chương trình hành động đẩy mạnh phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng, thường xuyên chỉ đạo thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, sai phạm trong THADS giai đoạn 2021 - 2025 đã được ban hành và triển khai toàn hệ thống THADS. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, giáo dục chính trị tư tưởng về phòng, chống tham nhũng tiêu cực thường xuyên được Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự triển khai thực hiện.
- Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã chỉ đạo thực hiện nghiêm, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật. Trong những năm qua, công tác kiểm tra, đặc biệt là công tác tự kiểm tra được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm, siết chặt kỷ luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Năm 2017, Bộ Tư pháp đã tổ chức 11 đoàn kiểm tra; năm 2018 là 19 đoàn; năm 2019 là 18 đoàn. Qua đó đã phát hiện và xử lý 25 trường hợp có hành vi tham nhũng[13]. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra trong công tác THADS, thực hiện nhiều giải pháp quyết liệt, nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, trong đó, tập trung kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm những việc thi hành án cho tổ chức tín dụng, thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; công tác quản lý vật chứng, tài sản tạm giữ. Thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra định kỳ, đột xuất, toàn diện và chuyên đề thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ; xác minh, phân loại điều kiện thi hành án, trình tự, thủ tục thi hành án... Đặc biệt, tập trung thanh tra, kiểm tra trong hoạt động thẩm định giá, bán đấu giá tài sản thi hành án - lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực trong THADS.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, công tác thanh tra đột xuất được đẩy mạnh, đặc biệt là các cuộc thanh tra đột xuất được thành lập khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc được thực hiện để phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Ngành. Trong đó, số cuộc thanh tra đột xuất trong lĩnh vực thi hành án là 47 cuộc trong tổng số 52 cuộc thanh tra đột xuất, chiếm tỷ lệ 90,3%[14]. Việc thanh tra được thực hiện đúng trọng tâm, trọng điểm và thu được những kết quả nhất định, qua đó, giúp Bộ Tư pháp thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước của ngành, phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm trong công tác THADS, đầu tư xây dựng cơ bản; vi phạm, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động THADS, thi hành án hành chính - thường dễ phát sinh trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của chấp hành viên, công tác quản lý kinh phí, tài chính; thu chi tiền, tài sản thi hành án; công tác quản lý điều hành của thủ trưởng cơ quan THADS...
Hoạt động thanh tra, kiểm tra đã góp phần rất lớn trong việc phát hiện, khắc phục các thiếu sót, vi phạm và kịp thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật; phòng ngừa các vi phạm pháp luật: Có tác dụng hạn chế, răn đe những hành vi vi phạm pháp luật; kịp thời đề xuất để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, những “điểm nghẽn”, khắc phục các “kẽ hở” của chính sách, pháp luật, ngăn ngừa những vi phạm pháp luật tương tự phát sinh, thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan THADS.
- Thực hiện quy định của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao công tác kiểm soát quyền lực thông qua công tác tổ chức cán bộ trong hệ thống THADS và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế được quan tâm, đi trước một bước. Đến nay, Bộ Tư pháp đã ban hành, phê duyệt đầy đủ thể chế nội bộ về công tác tổ chức cán bộ như: Mô tả vị trí việc làm và khung năng lực, ban hành quy định về tiêu chuẩn chức danh công chức chuyên ngành THADS, tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý, quy trình công tác cán bộ. Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ công chức, người lao động làm công tác THADS đáp ứng tiêu chuẩn về số lượng và chức danh. Việc thực hiện các quy trình điều động, bổ nhiệm, quy hoạch, chuyển đổi vị trí công tác bảo đảm minh bạch, đúng quy định pháp luật, không để xảy ra hiện tượng chạy chức, chạy quyền. Công tác chuyển đổi vị trí lãnh đạo cấp trưởng khi đã giữ chức vụ 02 nhiệm kỳ, chuyển đổi vị trí công tác bảo đảm theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. 100% cán bộ được quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chức danh lãnh đạo, quản lý... đều có ý kiến của cấp ủy đảng địa phương. Công tác phát hiện và xử lý tham nhũng, tiêu cực được chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả, khẳng định quyết tâm của Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp.
- Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS được chỉ đạo thực hiện nghiêm theo đúng quy định pháp luật để bảo đảm quyền lợi của người dân, góp phần kiểm soát quyền lực trong hệ thống THADS. Công tác tiếp công dân liên quan đến THADS luôn được Bộ Tư pháp, Hệ thống THADS thực hiện nghiêm theo quy định của Luật Tiếp công dân. Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các cơ quan THADS bố trí địa điểm tiếp công dân; phân công công chức có phẩm chất, kỹ năng dân vận và tinh thần phục vụ làm công tác tiếp công dân; định kỳ hàng tháng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã trực tiếp tiếp công dân, chỉ đạo giải quyết nhiều vụ việc. Thủ trưởng cơ quan THADS các cấp đều bảo đảm tiếp công dân theo quy định; thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh công tác tiếp công dân, tăng cường đối thoại, giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh từ cơ sở nên đã giảm số lượng công dân đến các địa điểm tiếp công dân của trung ương. Bộ Tư pháp cũng đã trực tiếp làm việc với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để thống nhất biện pháp giải quyết dứt điểm một số vụ việc khó khăn, phức tạp; thực hiện nghiêm việc đăng tải quyết định giải quyết khiếu nại lần hai trên Cổng/Trang thông tin điện tử của các đơn vị.
- Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp chỉ đạo tăng cường, đẩy mạnh công khai hóa, minh bạch hóa thông qua ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động THADS. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động THADS để hạn chế việc tiếp xúc giữa người dân, người yêu cầu thi hành án với người/cơ quan thi hành án, chấp hành viên nhằm hạn chế phát sinh tiêu cực. Qua phần mềm hỗ trợ trực tuyến THADS, người dân và doanh nghiệp được phục vụ hiệu quả hơn, gắn kết, thúc đẩy cải cách hành chính, góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng chính quyền điện tử, công sở điện tử. Qua phần mềm quản lý quá trình thụ lý thi hành án; tổ chức thi hành án và thống kê THADS, thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành; thông báo công khai lựa chọn tổ chức thẩm định giá, đấu giá tài sản trên các phương tiện thông tin đại chúng đã được đăng tải công khai.
Để các cơ quan nhà nước, tổ chức và nhân dân có thể kiểm soát hiệu quả hoạt động của công chức, cơ quan THADS, Bộ Tư pháp đã tăng cường công tác truyền thông nhằm cung cấp đầy đủ thông tin, tình hình công tác THADS nói chung, các vụ việc, nội dung dư luận xã hội quan tâm nói riêng. Hàng quý, tổ chức họp báo để cung cấp thông tin cho báo chí, truyền thông về hoạt động THADS. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng chỉ đạo việc thường xuyên giải đáp, trả lời các kiến nghị của tổ chức, cá nhân trên Cổng thông tin dịch vụ công quốc gia; chỉ đạo các cơ quan THADS triển khai cơ chế hỗ trợ trực tuyến một số nội dung về THADS, ứng dụng dịch vụ bưu chính công ích, phối hợp triển khai thu tiền thi hành án không dùng tiền mặt; xây dựng, tiếp nhận và xử lý thông tin qua đường dây nóng tại Tổng cục và các cơ quan THADS.
Thứ năm, kiểm soát quyền lực thông qua cơ chế kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, THADS nói riêng, các quy định của pháp luật đã thể hiện Viện kiểm sát nhân dân có vai trò chính yếu và trực tiếp nhất trong việc kiểm soát đối với hoạt động THADS[15]. Theo đó, đối với cơ quan THADS, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc thực hiện trình tự, thủ tục về THADS của cơ quan THADS; yêu cầu chấp hành viên, cơ quan THADS cùng cấp, cấp dưới ra quyết định và thi hành bản án, quyết định đúng quy định của pháp luật; gửi các quyết định về thi hành án; tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát nhân dân; trực tiếp kiểm sát hoạt động THADS của cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới, chấp hành viên.
Để thực hiện hiệu quả việc kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiến nghị xem xét hành vi, quyết định liên quan đến thi hành án có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng của cơ quan THADS cùng cấp hoặc cấp dưới; yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm; kháng nghị hành vi, quyết định của Thủ trưởng, chấp hành viên cơ quan THADS cùng cấp, cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu đình chỉ việc thi hành, thu hồi, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, Viện kiểm sát nhân dân còn thực hiện kiểm soát đối với hoạt động THADS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thông qua việc điều tra, truy tố đối với một số tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong THADS . Việc kiểm soát quyền lực được thể hiện trong các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân tại Điều 41, Điều 42, Điều 163, Điều 165, Điều 236 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong giai đoạn điều tra, truy tố: Từ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án đến truy tố bị cáo. Thực tế cho thấy, công cụ kiểm soát quyền lực này là một trong những công cụ hữu hiệu giúp phát hiện tội phạm trong hoạt động THADS, tăng cường hiệu quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Viện kiểm sát nhân dân không chỉ tiến hành kiểm sát hoạt động THADS do cơ quan THADS thực hiện (mặc dù cơ quan THADS là đối tượng kiểm soát chủ yếu của Viện kiểm sát nhân dân) mà còn tiến hành kiểm sát đối với các cơ quan, tổ chức khác trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về THADS theo quy định. Đối với Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết định của Tòa án; kiểm sát việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước; yêu cầu Tòa án cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án; kiến nghị Tòa án cùng cấp và cấp dưới thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc thi hành án; kiến nghị xem xét hành vi, quyết định liên quan đến thi hành án có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới. Ngoài ra, khi xét thấy bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị để xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục luật định, kể cả trường hợp bản án, quyết định đó đang được cơ quan THADS tổ chức thi hành. Đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc thi hành án của các chủ thể này; yêu cầu khắc phục vi phạm và xử lý người vi phạm; kiến nghị cơ quan, tổ chức có thiếu sót trong hoạt động quản lý khắc phục nguyên nhân, điều kiện dẫn tới vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp phòng ngừa.
Thứ sáu, kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động của Tòa án nhân dân.
Là cơ quan xét xử, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm bản án, quyết định được tuyên đúng pháp luật và có tính khả thi. Đồng thời, Tòa án cũng thực hiện kiểm soát trong THADS thông qua một số phương thức như: Yêu cầu cơ quan THADS báo cáo kết quả thi hành bản án, quyết định trong trường hợp cần thiết[16]; giải quyết các yêu cầu của cơ quan THADS, đương sự[17]. Ngoài ra, Tòa án thực hiện quyền “kiểm soát” đối với hoạt động THADS thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác như kháng nghị, giải thích, đính chính bản án, quyết định, xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, xem xét miễn, giảm thi hành án…, đặc biệt, Tòa án nhân dân giải quyết kiến nghị, yêu cầu của cơ quan THADS và có quyền “theo dõi kết quả xử lý sau khi Tòa án trả lời”[18]. Với các quy định này, Tòa án thực hiện kiểm soát hoạt động của cơ quan THADS trong việc thực hiện bản án, quyết định, những quyết định giải quyết kiến nghị của cơ quan THADS. Việc theo dõi nắm bắt này hướng tới mục đích giám sát việc thực thi bản án, quyết định của cơ quan THADS và quan trọng hơn là để nhìn nhận, đánh giá tính khả thi, hiệu quả thực tế của bản án, quyết định mà Tòa án đã ban hành, từ đó có các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của chính Tòa án cũng như kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả công tác THADS nói chung.
3. Một số tồn tại, hạn chế và giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác thi hành án dân sự
Công tác THADS đã và đang nhận được sự kiểm soát quyền lực có hiệu quả từ nhiều cơ quan, ban, ngành, địa phương thông qua nhiều cơ chế khác nhau. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy tính chất thi hành án là phức tạp và nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên, nên công chức thi hành án dễ bị đối tượng cám dỗ, mua chuộc, thậm chí bị đe dọa nên có thể dẫn tới tham nhũng, tiêu cực ở một số công chức thiếu rèn luyện đạo đức, phẩm chất. Bên cạnh đó, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp ở một số Cục, Chi cục Thi hành án dân sự chưa được coi trọng, chưa thường xuyên, liên tục hàng năm, vẫn còn có những đảng viên bị kỷ luật đảng. Việc thực hiện chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng có lúc, có nơi còn chưa nghiêm, một số công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý còn có vi phạm liên quan trực tiếp đến việc sử dụng, quản lý tiền, tài sản thi hành án, trong đó có trường hợp là Thủ trưởng cơ quan THADS. Chế độ đãi ngộ của công chức THADS chưa tương xứng với tính chất, đặc điểm của công việc, nên khó thu hút được người có tâm, có tầm vào Hệ thống Thi hành án dân sự. Ngược lại, người trong Hệ thống Thi hành án dân sự lại bị tác động đến tư tưởng, tình cảm, một số công chức không yêu nghề, sẵn sàng từ bỏ công việc hoặc chấp nhận bị kỷ luật buộc thôi việc. Một bộ phận công chức, trong đó có công chức lãnh đạo tham nhũng, tiêu cực với số tiền lớn, không có khả năng khắc phục, đã “khéo” che giấu vi phạm nên rất khó phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực, nhất là việc tham nhũng thường xảy ra sau một thời gian dài. Mặt khác, hành vi tham nhũng, tiêu cực của công chức là hành vi cá nhân xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi, ở mọi công đoạn thi hành án, nên việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Hệ thống THADS gặp nhiều khó khăn. Do vậy, trong thời gian tới, để thực hiện hiệu quả hơn nữa công tác kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác THADS, cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số giải pháp sau:
Một là, bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế của Đảng nhằm kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả, trong đó, quy định cụ thể, nhận diện và xử lý kịp thời đối với các hành vi có dấu hiệu vi phạm, tiêu cực của đảng viên và tổ chức Đảng trong hoạt động THADS. Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan tư pháp, tổ chức trong hoạt động THADS cũng phải bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân và đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013[19]. Do đó, cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng thể hiện trong chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Kết luận số 92-KL/TW ngày 05/11/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020, trong đó, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về THADS và thi hành án hành chính; Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Công an và Bộ Tư pháp trong việc quản lý công tác thi hành án trong Quân đội nhân dân.
Trong thời gian tới, cần đề xuất ban hành quy định cụ thể của Đảng về kiểm soát quyền lực trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong đó xác định sự thống nhất đầu mối trong hoạt động phòng, chống tham nhũng về điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án từ trung ương đến địa phương thông qua Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực các cấp, xác định các nội dung cụ thể về kiểm soát quyền lực đối với lĩnh vực THADS bao gồm kiểm soát đối với đảng viên, tổ chức Đảng trong thực hiện công vụ có dấu hiệu vi phạm về chuyên môn nghiệp vụ của chấp hành viên, lãnh đạo cơ quan THADS; công tác quản lý kinh phí, tài chính; thu chi tiền, tài sản thi hành án; công tác kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường nhà nước…
Hai là, thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, thể chế và pháp luật có liên quan về kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thi hành án dân sự.
Kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động THADS được hình thành từ chính yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức; đồng thời xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động THADS nói riêng. Chính vì vậy, cơ chế này luôn cần sự thay đổi để phù hợp với điều kiện, tình hình mới, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu của công tác tư pháp, yêu cầu hoạt động THADS. Mặt khác, khi có sự thay đổi về tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong bộ máy chính trị thì cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan tư pháp, tổ chức trong hoạt động THADS cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp; bảo đảm đồng bộ về cả tổ chức và hoạt động với các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Do đó, đòi hỏi thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung để xây dựng, hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát trong hoạt động THADS, hành chính; bảo đảm các hoạt động này được thông suốt, hiệu quả.
Trong bối cảnh hiện nay, việc hoàn thiện cơ chế này cần căn cứ vào các quy định của Đảng và của Nhà nước, đặc biệt là Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII để khẩn trương rà soát, cương quyết sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác giữa các bộ, ngành và các tổ chức trực thuộc các bộ, ngành; khắc phục triệt để sự trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một việc chỉ do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính[20]...
Ba là, nghiêm túc triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thi hành án dân sự.
Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát của Đảng, nâng cao nhận thức, vai trò của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, và của nhân dân để huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đối với công tác THADS theo hướng thực chất, hiệu quả hơn. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp; phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo THADS các cấp trong việc chỉ đạo, phối hợp giữa các cấp, các ngành để giải quyết các vụ việc phức tạp, có nhiều khó khăn, vướng mắc; vụ việc ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương.
Bên cạnh đó, trong thời gian tới, cần thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp liên ngành trong hoạt động THADS ở cả trung ương và địa phương thông qua rà soát, đánh giá để tiếp tục thực hiện hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế các quy chế phối hợp liên ngành, đặc biệt là, tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa Quy chế phối hợp liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác THADS.
Đồng thời, cần đổi mới chế độ, chính sách đối với đội ngũ chấp hành viên nhằm bảo đảm cuộc sống, sinh hoạt; đổi mới, tăng cường công tác luân chuyển cán bộ quản lý từ Tổng cục Thi hành án dân sự về các Cục THADS hoặc Chi cục THADS và giữa các Cục, Chi cục THADS các tỉnh, thành; đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động cho cơ quan THADS; tăng cường các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ cho cán bộ, chấp hành viên trong các cơ quan THADS.
Tổng Cục trưởng, Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp
ThS. Phạm Minh Đức
Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp
[1]. Điều 41 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
[2]. Một số nhiệm vụ của Ủy ban kiểm tra: Kiểm tra đảng viên, tổ chức Đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm; Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức Đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương; xem xét, kết luận, quyết định hoặc đề nghị thi hành kỷ luật đối với những trường hợp vi phạm…
[3]. Điều 12 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, năm 2020).
[4]. Điều 69 Hiến pháp năm 2013.
[5]. Điều 50 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
[6]. Điều 71 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
[7]. Điều 19, Điều 26 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
[8]. Hiến pháp năm 2013 (Điều 6, Điều 8, Điều 9...), Luật Công đoàn, Luật Tổ chức chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Tiếp công dân và các văn bản dưới luật khác.
[9]. Khoản 2 Điều 9 Hiến pháp năm 2013.
[10]. Điều 30 Hiến pháp năm 2013.
[11]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (năm 1999).
[12]. Chỉ thị số 01/CT-BTP ngày 11/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc tăng cường phòng, chống tiêu cực, tham nhũng trong THADS; Nghị quyết số 68-NQ/BCSĐ ngày 03/4/2020 về lãnh đạo thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong Ngành Tư pháp giai đoạn 2020 - 2025; Quyết định số 29-QĐ/BCSĐ ngày 02/8/2017 phê duyệt Đề án “Thực trạng và giải pháp phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp của Bộ Tư pháp”; Công văn số 449-CV/BCSĐ ngày 19/7/2019 về việc rà soát, chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, tham nhũng trong các cơ quan, đơn vị có chức năng thanh tra, kiểm tra phòng, chống tham nhũng; Kế hoạch số 120-KH/BCSĐ ngày 19/12/2019 triển khai thực hiện các kết luận và chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng về công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; Chương trình hành động đẩy mạnh phòng, ngừa tiêu cực, tham nhũng, sai phạm trong THADS giai đoạn 2021 - 2025; Kế hoạch số 18-KH/BCSĐ ngày 06/8/2021 thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế trong Bộ, Ngành Tư pháp; Nghị quyết số 23-NQ/BCSĐ ngày 29/3/2022 về lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính giai đoạn 2022 - 2026.
[13]. Nguồn: Báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Tổng cục Thi hành án dân sự hàng năm.
[14]. Nguồn: Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp.
[15]. Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Điều 12 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, năm 2020).
[16]. Khoản 2 Điều 170 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, năm 2020).
[17]. Điều 170 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, năm 2020).
[18]. Điểm c khoản 3 Điều 170 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, năm 2020)
[19]. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
[20]. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.